Text Box: TIN VUI

  

 

 

 

 


 

Web site:www.tinvui.org E-mail : bantreconggiao@yahoo.com

 

SỐ 64 CN 10.12. 2006

 

MỤC LỤC

 

SỐ 64 CN 10.12. 2006.

SỐNG MÙA VỌNG..

Các Ðức Hồng Y Á châu và Pháp giao lưu với 12.000 Bạn Trẻ Công giáo Saigòn.

LỄ ĐỨC MẸ VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI 2006.

SỐNG MÙA VỌNG CÙNG ĐỨC MẸ..

Bài giảng của Ðức Thánh Cha Beneđitô XVI tại Nhà Thờ Chính Tòa Chúa Thánh Thần ở Istanbul

Thư Mục Vụ Mùa Vọng 2006 của ĐGM Mỹ Tho :

TÔI ĐẶT HY VỌNG VÀO CHÚA..

Mùa thiếu phụ Nam Xương.

TÀI LIỆU TUẦN THƯỜNG HUẤN LINH MỤC GIÁO PHẬN ĐÀLẠT 2006.

DEUS CARITAS EST :

LỜI GIẢI ĐÁP CHO CÁC VẤN NẠN..

CỦA CON NGƯỜI ĐƯƠNG THỜI.

PHỎNG VẤN THÁNH PHAN-XI-CÔ XA-VI-Ê..

NHỮNG QUAN NIỆM SAI LẦM VỀ TÌNH YÊU VÀ HÔN NHÂN GIA ĐÌNH HIỆN NAY HẬU QUẢ VÀ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC..

 

 

 

Text Box: SỐNG LỜI CHÚA

 

 

 

 

 


 

CHÚA NHẬT 2 MÙA VỌNG – NĂM C

10.12.2006

 

 

Lc 3, 1-6

"Mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Đời hoàng đế Tibêriô năm thứ mười lăm, Phongxiô Philatô làm toàn quyền xứ Giuđêa, Hêrôđê làm thủ hiến xứ Galilêa, còn em là Philipphê làm thủ hiến xứ Ituria và Tracônitêđê; Lysania làm thủ hiến xứ Abilêna; Anna và Caipha làm thượng tế; có lời Chúa đã kêu gọi Gioan, con Giacaria, trong hoang địa.

Ông liền đi khắp miền sông Giođan, rao giảng phép rửa sám hối cầu ơn tha tội, như lời chép trong sách Tiên tri Isaia rằng: "Có tiếng kêu trong hoang địa: Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi; con đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, con đường gồ ghề hãy san cho bằng. Và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa". Đó là lời Chúa.


Gioan Tẩy giả rao giảng

 

Giai đoạn đầu của công cuộc rao giảng của Đức Giêsu được khoanh vùng rõ ràng. Giai đoạn này gồm một loạt các dấu chỉ loan báo và một khối tường thuật các việc Đức Giêsu làm và các lời Người nói tại Galilê. Tác giả Luca đưa Đức Giêsu đi vào lịch sử dưới dấu chỉ là hoàn cảnh chính trị và tôn giáo của đế quốc Rôma và của Israen. Qua cái cổng này, ngài lấy lại cái chặng của Tin mừng Maccô : Gioan Tẩy giả (3,1-20), phép Rửa và việc Thánh Thần ngự xuống (3,21-22), cám dỗ (4,1-13). Giữa phép Rửa và cám dỗ, ông ghép gia phả của Đức Giêsu vào (3,23-28).

1. Sống trong “ngày hôm nay của Thiên Chúa”


Cũng như ơn gọi của Gioan Tẩy giả, ơn gọi của chúng ta được Thiên Chúa ban cho vào thời đại của chúng ta. Do đó, chúng ta phải sống “trong ngày hôm nay của Thiên Chúa” (Dt 4,7) ; đối với chúng ta, thời đại chúng ta đang sống là thời đại thuận tiện duy nhất giúp phát triển tư cách Kitô hữu của chúng ta. Cũng như Gioan Tẩy giả, Thiên Chúa gọi chúng ta khởi đi từ một khung cảnh đang quy định tất cả phong thái và cuộc sống chúng ta : giống nòi, gia đình, xứ sở, khí hậu. Cách thức duy nhất để đáp trả ơn gọi chúng ta với cùng một lòng trung thành như Gioan Tẩy giả, đó là chấp nhận dứt khoát thời đại và môi trường chúng ta, để làm nơi phục vụ lời Chúa, làm khung cảnh cho cách thức ứng xử Kitô hữu theo gương Đức Kitô.


2. Lời Thiên Chúa giữa lòng thế giới


Theo quan điểm của Thiên Chúa, điều quan trọng không phải là những cuộc chinh phục ngoạn mục của Rôma hay các mánh khóe của Hêrôđê, mà điều quan trọng là Lời của Ngài phải được ngỏ với Gioan, con Dacaria. Trong bình diện thiêng liêng, bình diện duy nhất hệ trọng đối với cuộc sống con người, các dáng vẻ bề ngoài hùng mạnh và vinh quang chẳng là gì cả. Bởi vì Thiên Chúa thực hiện những dự phóng lớn của Ngài trên thế giới bằng cách dùng những cái yếu đuối và nhỏ bé theo thế gian. Đối với chúng ta cũng thế, dù chúng ta có nhỏ bé, giới hạn đến đâu, Thiên Chúa vẫn có thể dùng chúng ta mà thay đổi bộ mặt thế giới, nếu chúng ta nghe tiếng Ngài kêu gọi và hoán cải mỗi ngày.


Thiên Chúa muốn ban ơn cứu độ cho “mọi xác phàm”. Chúng ta nên nghĩ đến đoàn người bao la chưa biết Đức Kitô. Hãy cầu nguyện cho họ và xin Thiên Chúa ban cho nhiều ơn gọi truyền giáo. Chúng ta cũng hãy trở thành các nhà thừa sai theo gương vị Tiền hô, ít ra bằng việc cầu nguyện và chu toàn trung thành nhiệm vụ cá nhân, tại nơi Chúa quan phòng đặt để chúng ta.


3. “Hãy dọn đường”


Trong sa mạc của cuộc sống chúng ta hôm nay, lời Chúa đang vang lên trên chúng ta nhờ lời rao giảng, khi chúng ta đi dự thánh lễ. Khi đó, chúng ta không chỉ gặp gỡ các anh chị em trong cùng giáo xứ, mà là gặp gỡ tất cả tín hữu trên thế giới, mặc cho họ theo thể chế nào, nghi thức nào... Chúng ta được mời gọi điều chỉnh các nẻo đường quanh co của lòng ta : tức là hãy để ý đến ý hướng và cách tiến hành ngay thẳng ; hãy kiên vững bước đi theo con đường thẳng của bổn phận, không ngẫu hứng, không thối lui ; hãy lấp đầy các thung lũng của lòng ta, nếu chúng ta còn thiếu quảng đại và lý tưởng Kitô hữu. Hãy san bằng các đồi núi kiêu ngạo. Hãy dũa bớt những sù sì của tính tình chúng ta và chấm dứt những chia rẽ.

 

Theo Bài Giảng Chúa Nhật – Giáo phận TP- HCM

Mục lục

 

 

Text Box: CON ĐƯỜNG TU ĐỨC

 

 

 

 


 

SỐNG MÙA VỌNG

 

Lịch phụng vụ đề cao Mùa Vọng.

Ngay từ đầu mùa Vọng, nhiều người đã hân hoan đón chờ lễ Chúa giáng sinh.

Hiện nay, nhiều nơi, mùa Vọng vẫn giới thiệu được màu sắc tâm linh, gây được nhiều gợi ý nội tâm sâu sắc. Nhưng có nơi Mùa Vọng đã trở thành một dịp chuẩn bị cho niềm vui lễ hội, nhắm mục đích thương mại, cổ võ giải trí từ lành mạnh đến suy đồi.

Với nhận thức như trên, các tín hữu công giáo nói chung và mọi linh mục tu sĩ của Chúa nói riêng sẽ rất muốn và phải muốn mừng kỷ niệm Chúa giáng sinh với một niềm vui thực sự lành mạnh, thực sự trưởng thành. Mục đích là để ca tụng Chúa một cách xứng đáng. Đồng thời cũng để chia sẻ Tin Mừng cho những người xung quanh.

Để được như thế, chúng ta quyết tâm sống một mùa Vọng có định hướng rõ ràng, như những chuẩn bị cần thiết. Dưới đây là vài gợi ý:

1/ Sống với Chúa Giêsu một cách hết sức thân mật

Để diễn tả cuộc sống thân mật với Chúa Giêsu, nhiều vị thánh đã nói lên cảm nghiệm của mình một cách rất sống động gần gũi.

Ở đây, tôi chọn cách diễn tả của thánh Gioan tông đồ. Ngài mở đầu lá thư thứ nhất thế này:

"Điều vẫn có ngay từ lúc khởi đầu,

điều chúng tôi đã nghe ,
điều chúng tôi đã thấy tận mắt ,
điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng ,
và tay chúng tôi đã chạm đến ,
đó là Lời hằng sống .
Quả vậy, sự sống đã được tỏ bày,
Chúng tôi đã thấy và làm chứng ,
Chúng tôi loan báo cho anh em sự sống đời đời:
Sự sống ấy vẫn hướng về Chúa Cha ,
Và nay đã được tỏ bày cho chúng tôi" (1 Ga 1,1-2).

Qua tâm sự trên đây, thánh Gioan cho ta thấy: Cuộc sống của Ngài với Chúa Giêsu là tình yêu hết sức gắn bó, gần gũi, thân thiết và tự nhiên.

Ngài đã nghe Chúa Giêsu nói,
Ngài đã tận mắt thấy Chúa Giêsu nhãn tiền,
Ngài đã chiêm ngưỡng Chúa Giêsu,
Ngài đã chạm đến Chúa Giêsu.

Qua những tiếp cận đó, thánh Gioan gọi Chúa Giêsu là Lời hằng sống và là chính sự sống. Đối với Ngài, một nét rất đặc biệt của hình ảnh Chúa Giêsu là luôn hướng về Chúa Cha.

Thánh Gioan đã sống với Chúa Giêsu như vậy. Chúng ta có sống được phần nào như vậy không?

Thiết tưởng nhiều người đã có đời sống đức tin rất mạnh. Thêm vào đó là những cảm nghiệm rất sống động. Như nghe được, như thấy được, như chiêm ngưỡng được, như chạm đến được chính Đức Giêsu.

Nhờ vậy, mà họ tin và thấy Chúa Giêsu là sự sống của họ, một cuộc sống luôn thực hiện ý Chúa Cha, luôn đi về với Chúa Cha.

Mỗi người chúng ta nên xét mình về liên hệ của ta với Chúa Giêsu. Chắc chắn liên hệ đó không sai đức tin. Nhưng liên hệ đó có mặn mà, tràn sâu vào mọi tầng lớp nội tâm ta, để ta cảm nghiệm được phần nào sự ngọt ngào và sự thánh thiện sống động thường xuyên về Chúa Giêsu không?

Người thời nay không quan tâm đến lý thuyết khô cứng. Nếu đức tin của ta chỉ là lý thuyết, thì đức tin đó khó có sức lôi kéo con người.

Vì thế, trong mùa Vọng này, chúng ta nên tăng cường đời sống đức tin, cách riêng trong liên hệ thường xuyên với Chúa Giêsu. Để khi chúng ta nói về đạo của ta, nhất là dịp Noel, chúng ta không giới thiệu một hệ thống lý thuyết, giáo điều, nhưng là kể về một Đấng thiêng liêng sống động, mà ta luôn gần gũi và đã có kinh nghiệm bản thân rất sâu sắc từ lâu .

Ngoài định hướng kể trên, chúng ta còn một việc khác, nên đem ra thực hành, để dọn mình mừng Chúa giáng sinh. Việc đó là sự từ bỏ mình, theo gương Chúa Giêsu.


2/ Từ bỏ mình, để hoàn toàn vâng phục ý Chúa Cha

Tu đức luôn nhắc đến một điều kiện rất cần để nên môn đệ Chúa Giêsu. Điều kiện đó là cố gắng sống theo gương Chúa Giêsu.

Gương Chúa Giêsu đã được thánh Phaolô tóm tắt lại bằng mấy dòng trong thư gởi giáo đoàn Philiphê:

"Đức Giêsu Kitô
vốn dĩ là Thiên Chúa
mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì
địa vị ngang hàng với Thiên Chúa,
nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang
mặc lấy thân nô lệ,
trở nên giống phàm nhân
sống như người trần thế.
Người lại còn hạ mình,
vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết,
chết trên cây thật tự" (Pl 2,6-8).

 

Đọc đoạn thư trên đây, chúng ta thấy gương sáng nổi bật nơi Đấng Cứu thế là sự từ bỏ mình, khiêm nhường, và tự nguyện hy sinh, để cứu chuộc loài người.

Những đức tính trên đây đang được nhiều môn đệ Chúa tại Việt Nam thực hiện. Tuy nhiên, sự thực hiện đó xem ra vẫn chưa đúng mức, nên bầu khí tôn giáo hình như vẫn không toả sáng được thực chất tu đức người môn đệ Chúa trong xã hội Việt Nam hôm nay.

Nhiều người đã than phiền rằng: Trước đây, khi hoàn cảnh tại Việt Nam còn nhiều khó khăn, thì các môn đệ Chúa tại đây đã là những chứng nhân sáng lạn về đức tin, đức ái, đức khiêm nhường, đức khó nghèo, đức vâng lời và sự từ bỏ mình. Chính đời sống họ nhắc nhở về Noel xưa của Chúa Cứu thế. Còn bây giờ hoàn cảnh được thông thoáng, thì lại xảy ra nhiều dấu chỉ về tình trạng đạo đức xuống dốc. Chính đời sống nhiều Kitô hữu đã và đang làm lu mờ hình ảnh Đấng Cứu thế. Nghe mà thấy buồn và lo âu. (

Tuy sao, khi chúng ta cùng Đức Mẹ sống thân mật với Chúa Giêsu, trong tinh thần xin vâng, thì ta có quyền hy vọng: Chúa Giêsu sẽ đến với ta như một Đấng Cứu thế đem lại niềm vui đầy tình yêu thương xót. Không những chỉ trong mùa Vọng, mà là suốt cả cuộc sống ta, đời này và đời sau vô cùng, vô tận.

ĐGM. GB Bùi Tuần

Mục lục

 

Text Box: HIỆP THÔNG GIÁO HỘI

 

 

 

 

Các Ðức Hồng Y Á châu và Pháp giao lưu với 12.000 Bạn Trẻ Công giáo Saigòn

Các Ðức Hồng Y Á châu và Pháp giao lưu với 12,000 Bạn Trẻ Công giáo Saigòn trong dịp mừng 500 năm thánh Phanxicô Xaviê Truyền Giáo tại Á châu.

Tin Saigon, Việt Nam (4/12/2006) -- Ngày 03 tháng 1 năm 2006, Trung Tâm Mục Vụ Công Giáo tổng giáo phận Sài Gòn đã đón tiếp hơn 12 ngàn bạn trẻ của giáo phận trong ngày Ðại hội giới trẻ hàng năm.

Ðại hội Giới Trẻ Saigòn năm nay có bầu khí tưng bừng hơn, náo nhiệt, rộn rã và linh hoạt hơn những lần trước. Ðặc biệt năm nay với sự đón tiếp phái đoàn Quý Hồng Y Giám Mục Châu Á, Pháp quốc và Quý Ðức Giám mục, Ðức Ông cùng rất đông quý linh mục Tu sĩ nam nữ, Quý khách nước ngoài. Ý nghĩa hơn là dịp kỷ niệm mừng 500 năm thánh Phanxico Xavier truyền giáo vào Châu Á.

Mới hơn 2giờ chiều, khuôn viên của Trung tâm công giáo của giáo phận đã trong tư thế sẵn sàng đón các bạn trẻ. Băng rôn, biểu ngữ, cờ hoa phấp phới reo vui trong nắng chiều.

Theo chân các bạn trẻ, tôi cũng trình xuất vé tại cổng vào, đến nhận phần ăn tối và tự tìm chỗ trong khuôn viên. 3 giờ chiều vẫn còn một nửa sân nắng... Nắng kệ nắng, gió mặc gió... bạn trẻ không ai bảo ai tự sắp xếp thành những hàng ngang thật đẹp mắt, và dĩ nhiên là ngồi xuống... đất rồi. Nhóm Lửa Hồng khuấy động bầu khí bằng những tràng băng reo, bằng những bài hát múa cộng đồng và bài ca chủ đề làm cho những bờ vai chưa quen biết nhau, những bàn tay còn hờ hững trước đó còn bỡ ngỡ rụt rè, bây giờ gần nhau hơn, vai kề vai, tay trong tay cùng múa cùng hát nhịp nhàng như đã được tập trước đó lâu lắm rồi.

Bầu khí nóng dần lên, mặc dù ánh dương đã dịu đi đôi phần. Trong phần giao lưu, các bạn được biết tên hai người bên cạnh, rồi hô to tên của bạn, nói thầm tên của bạn mới quen làm bầu khí vỡ oà sự thân thiện, nụ cười vì thế mà rạng rỡ hơn, tiếng hát vì thế mà âm vang hơn, vòng tay nối rộng hơn.

4 giờ chiều, cha Gioan Lê Quang Việt - Ðặc trách giới trẻ Giáo phận Sài Gòn lên công bố và khai mạc Ðại hội với chủ đề: "Ánh sáng soi bóng tối". Tiếng vỗ tay của các bạn trẻ cũng góp phần khai mạc cho ngày Ðại hội khi logo của Ðại hội được giới thiệu. "Ánh đuốc tượng trưng cho ngọn lửa trái tim đang rực cháy, một ngọn lửa mà thế gian đang khao khát, chúng ta hãy cùng nhìn lại nơi sâu thẳm tâm hồn mình, những khoảng đen, tối những chỗ tối, và mở lòng để đón ánh sáng Chúa Giêsu chiếu rọi, làm bừng lên một sức sống mới nơi mỗi người trẻ chúng ta."

Khởi đầu là phần diễn nguyện với: Ánh sáng ơn cứu độ, bóng tối cuộc đời, tìm lại nguồn ánh sáng và ánh sáng Chúa Giêsu. Toàn bộ phần diễn nguyện này được dựng nên như một câu chuyện của một cô gái con nhà gia giáo, nhưng vì những rạn nứt của gia đình, của chuyện tình cảm riêng tư mà cô tìm quên trong cuộc sống phù du, sống đời buông thả, lao vào chốn ăn chơi với những viên hồng phiến chết người và cái giá cuối cùng cho những ngày tháng ấy là kết quả dương tính. Nhưng bạn của cô gái đã kịp thời tìm thấy cô, đưa cô về với cuộc sống đời thường và cô gái nhận chân ra giá trị của cuộc sống mà Thiên Chúa ban tặng. "Sớm mai thức giấc, tôi muốn sự tồn tại của mình làm đẹp lòng Thiên Chúa", đó là lời kết cho phần hoạt cảnh và là lời nhắn gửi đến mỗi bạn trẻ. Trong mỗi phân cảnh, các đạo diễn đã xen kẽ những trích đoạn Kinh Thánh Tân và Cựu Ước... Trong Cựu Ước, lời của tiên tri Isaia cảnh báo và khuyên răn loài người, khi cha ông ta đã làm cho những tương quan được Thiên Chúa tạo dựng vốn tốt đẹp, nay bị rạn nứt. Con người hối cải, ăn năn sám hối theo lời của Isaia, Thiên Chúa lại qua Ông loan báo sẽ ban cho nhân loại một Vị Cứu Tinh. Tiếng kêu xin của con người vọng thấu trời cao. Tân Ước đó là lời hứa của Thiên Chúa khi Trinh Nữ Maria đính hôn cùng Giuse, sinh hạ một Người Con... Ðó là điều khó theo dõi cho những bạn trẻ không tham dự từ đầu, nhưng lại dễ hiểu ý nghĩa cho những bạn tham gia câu chuyện ngay từ buổi diễn. Hoạt cảnh này nhận nơi những người dù khó tính nhất cũng ít là một lời khen. Cho thấy một sự chuẩn bị chu đáo và kỹ lưỡng của ban mục vụ giới trẻ giáo phận.

Trong phần hoạt cảnh, các bạn trẻ được giao lưu ít phút với nhóm "Nụ Cười" là những anh chị em đang sống chung với căn bệnh xã hội AIDS. Hỏi vì sao các bạn lại chọn tên nhóm là Nụ Cười. Một bạn nữ trong nhóm lỏn lẻn trả lời: Vì không chỉ cười cho mình mà còn muốn mang nụ cười đến cho những người khác. Một câu trả lời đơn sơ nhưng chất chứa nhiều ý nghĩa tưởng chùng như đơn giản nhưng chất chứa một triết lý sâu sắc. Trong phần chia sẻ tiếp theo của một anh bạn, anh nói lên tâm trạng chung của những người "gần đất xa trời". Các anh chị cảm thấy rất hạnh phúc vì biết giờ mình sắp chết, sắp về với Chúa. Anh chị em có thời gian chuẩn bị cho mình, lúc nào cũng sống trong tâm tình tỉnh thức sẵn sàng, đó là lợi thế của chúng tôi - anh nhấn mạnh -. Và chắc hẳn mọi bạn trẻ cũng giật mình vì câu trả lời rất thật cuả anh.

Xen giữa những phần diễn của hoạt cảnh là những tiết mục của hàng chục ngàn khán giả với Nghìn Trùng Biển Khơi, với Con Ðường Giêsu, với Thắp Sáng Lên được múa và hát Karaoke, vang dậy một góc trời, những cánh tay thân thiện lại tìm nhau trong một nhịp nối, những mời gọi theo chân thánh Phanxico Xavier như âm vang hơn, trầm hùng hơn khi cả hàng chục ngàn người cất tiếng: Nghìn trùng biển khơi... Vượt ngàn dặm xa... đến với Cha muôn lời hoan ca.

Chương trình đại hội giới trẻ tạm khép lại trong 3 tiếng đồng hồ ngắn ngủi, nhưng chắc chắn còn đọng lại trong tôi, trong bạn, trong trái tim của hơn 12 ngàn bạn trẻ có mặt hôm ấy là lời mời gọi lên đường dấn thân, để ánh sáng soi trong đêm tối, để tình thương được chia san, để tình yêu được nối kết và để những ước vọng hướng thiện mãi bay cao, bay xa.

Chương trình đón tiếp hai phái đoàn các Ðức Hồng Y Châu Á và phái đoàn Giám Mục Pháp của Tổng Giáo phận Sài Gòn được tiếp nối với chương trình Ðại hội giới trẻ. Sau giờ giải lao, các anh chị em tình nguyện viên sắp các hàng ghế và chỗ ngồi, khuôn viên Trung Tâm mục vụ mang một khuôn mặt thân thiện và đầy lòng hiếu khách.

Giới trẻ của giáo phận nhường chỗ cho Quý tu sĩ là khách mời, Quý khách của giáo phận trong cũng như ngoài nước.

Có thể nói rằng cuộc giao lưu Ðông - Tây này mang tầm vóc Châu Á được đăng cai tại Việt Nam, một quốc gia nhỏ bé với hình chữ S mỏng manh, chỉ với 7% dân số là người công giáo, một con số khiêm tốn, một con số gắn liền với quốc gia được gắn thêm hai chữ "truyền giáo" trong văn phong nhà đạo, mà ngày hôm nay kỷ niệm 500 năm Thánh Phanxicô Xavier truyền giáo tại Á Châu lại làm cho cuộc gặp gỡ trở nên ý nghĩa hơn.

19giờ 30, tiếng cồng chiêng ở cổng Trung Tâm Văn Hoá Công Giáo làm cho tất cả mọi ánh mắt đổ dồn về phía sau. Như được báo trước, đó là dấu hiệu của đoàn Giám Mục Hồng Y đã đến. Ði đầu là những ngọn đuốc cháy sáng của các bạn trẻ, tiếp là đoàn cồng chiêng và đoàn Hồng Y, Giám Mục, Ðức Ông, Linh mục, Tu sĩ và Quan khách đi giữa tiếng hoan hô, chào mừng của các bạn trẻ bằng đủ thứ tiếng Anh, Pháp... và lấp loá trong ánh đèn flash của mọi ống kiếng quay phim chụp ảnh hướng vào lối đi chính.

Ðức Hồng Y Tổng Giám mục Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn trong vai trò chủ nhà, giới thiệu ngắn gọn về Quý khách đang hiện diện trên sân khấu. Ðó là 3 Hồng Y người Châu Á gồm:

- Ðức Hồng Y Telesphore Placidus Toppo, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Ấn Ðộ.

- Ðức Hồng Y Gaudencio B. Rosales, Tổng Giám Mục, giáo phận Manila- Phi Luật Tân.

- Ðức Hồng Y Giuse Trần Nhật Quân (Joseph Zen Ze Kiun) người Hồng Kông, Giám mục Giáo phận Hồng Kông.

Phái đoàn Hội Ðồng Giám Mục Pháp quốc gồm:

- Ðức Hồng Y Jean Pierre, Tổng Giám Mục, giáo phận Bordeaux, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Pháp.

- Ðức Cha Bernard Nicolas Lalane Aubertin, Tổng Giám Mục, giáo phận Tours.

- Ðức Ông Stanislas Lalane, Thường trực Hội đồng Giám mục Pháp

Và sự hiện diện của các Ðức Cha:

- Ðức Cha Micae Hoàng Ðức Oanh, Giáo phận Kontum, nơi mới đón phái đoàn Pháp quốc, tiễn chân các Ngài về Sài Gòn;

- Ðức Cha Giuse Vũ Duy Thống, Phụ tá Giáo phận Sài Gòn.

Mỗi lời giới thiệu của Ðức Hồng Y là một trời vỗ tay của các bạn trẻ. Vì lần đầu tiên Giáo phận được đón tiếp và diện kiến một lúc 5 vị hồng Y, 3 vị Giám mục, và một Ðức Ông, cảm giác của giới trẻ như mình đang được sống trong giáo triều Roma. Những vòng hoa tươi thắm được các bạn trẻ đại diện cho Giáo phận dâng lên Quý Giám Mục, Hồng Y, như nói lên tâm tình vui mừng và tình quý mến mà trước đây quý quốc đã có với đất nước chúng ta. Sau cùng, Ðức Hồng Y của chúng ta đánh một hồi chiêng hân hoan chào đón tất cả quý quan khách và những người đang hiện diện nơi đây. Và giới trẻ đáp lại lời chào đón với bài ca chủ đề.

Mở đầu chương trình chào đón là vũ khúc tây nguyên của anh em dân tộc dưới chân núi Lâm Viên. Xen kẽ giữa các tiết mục văn nghệ mang tính dân tộc đặc sắc là phần giao lưu với Quý hồng Y.

Mở đầu buổi giao lưu, cha Trần Ðình Long đặt câu hỏi với Ðức Hồng Y Giuse Trần Nhật Quân (Joseph Zen Ze Kiun) như sau: Thưa Ðức Hồng Y, giới trẻ Việt Nam chúng con rất thích coi phim, nhất là phim Hong Kong, có bạn thuộc tên các diễn viên còn hơn tên của 12 Tông Ðồ, vậy thực trạng niềm tin và đời sống của Hồng Kông có đúng như trong phim không?

Ðức Hồng Y Giuse Trần Nhật Quân trả lời rằng: Các bạn cứ coi phim, nhưng đừng tin tất cả, vì cuộc sống nơi đâu cũng có người giàu kẻ nghèo, họ không chết vì đói, nhưng họ cũng thiếu thốn, cũng khổ sở và mới đây có một người cha đã tự tử vì ông chỉ đủ tiền mua cá cho con mình ăn trong nhiều tháng. Ông cảm thấy hổ thẹn. Và Ngài kết luận bằng một giọng chắc nịch: Nhưng tiền không phải là tất cả.

Ðức Hồng Y Rosales người Phi luật Tân, giới trẻ chia buồn với Ngài về cơn bão "Sầu Riêng" vừa qua và Ngài cũng giới thiệu sơ lược về đất nước có hơn 7 ngàn hòn đảo lớn nhỏ trong số đó có 2 ngàn hòn đảo chưa có người ở. Các thiên tai đua nhau tập trung ở Phi, nào là núi lửa, động đất, bão và sau cơn bão, người dân lại tiếp tục... xây nhà. Những "ưu ái" của thiên nhiên ấy làm cho người dân Phi dễ dàng hoà nhập với thiên nhiên, với những khó khăn trong cuộc sống. Hơn nữa lịch sử của Phi cũng đã chịu 5 lần đô hộ của Tây Ban Nha, Anh, Hà lan, Mỹ và Nhật. Nhưng chúng tôi luôn cảm ơn Chúa vì chúng tôi vẫn là chúng tôi - một cách nói rất dí dỏm và vui tươi. Ðức Hồng Y nói tiếp, chúng ta (Việt Nam và Phi) là anh em gần gũi, có điểm tương đồng là có rất đông các bạn trẻ. Có nhiều bạn trẻ thì có nhiều hy vọng. Và Ðức Hồng Y hỏi ngược lại: Bạn đã làm gì cho Ðức Kitô ở Việt Nam? Ngài có 3 đề nghị:

- Hãy học biết Chúa Giêsu - chia sẻ Chúa Giêsu với những người khác

- Ðọc Kinh Thánh và cầu nguyện

- Noi gương thánh Phanxico Xavier

Và bằng một giọng gần gũi Ngài hỏi lại bạn có muốn như thế không, tiếng vỗ tay lại âm vang một góc trời.

Ðức Hồng Y Toppo người Ấn Ðộ, Ngài nói về Mẹ Têrêsa Calcutta, Mẹ đã được đánh động bởi hai lời của Ðức Giêsu: "Ta khát" và "các con đã làm gì cho anh chị em nhỏ bé nhất". Ðó là Mẹ, còn bạn? Xin hãy có một trái tim quảng đại và đôi tay phục vụ. Một cách giới thiệu sự phục vụ ngắn gọn và dễ nhớ. Và Ngài ngỏ lời mời các bạn trẻ đến thăm Ấn Ðộ. Tôi cũng tin rằng một ngày không xa một hay nhiều người đang ngồi đây hôm nay sẽ có dịp đến thăm Ấn Ðộ, một quốc gia có nhiều dân bản địa... và chúng ta rất có quyền hy vọng.

Với Ðức Hồng Y Giáo phận. Bordeaux, ngài chia sẻ cảm nhận khi đến việt Nam, đó là một niềm vui rất lớn lao, cảm nhận được sự năng động nơi các bạn trẻ, nơi các giáo xứ. Cám ơn các bạn đã truyền lửa nhiệt tình này cho tôi. Ðiều đánh động lớn là sức sống của các cộng đoàn tại Việt Nam. Tôi đã khám phá trên lịch sử xây dựng Việt Nam các vị anh hùng, các vị tử đạo và những hạt mầm ngày ấy đang trổ bông kết trái. Ngài ước mơ tình thân hữu vừa xa xưa vừa lâu năm sẽ gần gũi hơn, mang tính hiện đại thân thiết hơn.

Xã hội Pháp khác với xã hội Việt Nam, đó là một xã hội tiêu thụ, nhiều bạn trẻ và người trưởng thành cuộc đời họ chỉ quanh quẩn trong chuyện mua sắm mà quên là phải sống bằng cơm bánh nữa. Với một thí dụ rất hình ảnh, Ngài nói trước đây thánh Phanxico Xavier đã bỏ Châu âu truyền giáo tại Châu Á, và hiện nay có rất đông anh chị em linh mục tu sĩ đang học tại Pháp các bạn đang truyền giáo lại cho chúng tôi. Và Ngài kết luận: Nếu bạn đi theo Ðức Kitô thì các bạn ngập tràn ánh sáng.

Tiếp đó là trích đoạn ngắn những ngày cuối đời của Thánh Phanxico Xavier khi đứng trước lục địa Trung Hoa... những khát khao muốn được truyền giảng tại đất nước này của Thánh nhân cách đây 500 năm, chắc chắn cũng đốt cháy trái tim của những bạn trẻ đang thao thức cho cánh đồng lúa cuả Chúa. Thánh nhân chỉ tìm phục vụ, chỉ cho đi mà không tính toán#tất cả để tìm vinh danh Chúa.

Cuối cùng của ngày tiếp đón phái đoàn Giám Mục Hồng Y là lời cảm ơn của Ðức Hồng Y Gioan Baotixita. Dù Quý Ðức Hồng Y bận rộn nhưng vẫn dành chút thời gian đến thăm đất nước nhỏ bé, cho chúng con cảm nhận một tinh thần truyền giáo, sáng lên một tinh thần Á Châu. Sự hiện diện của phái đoàn Pháp làm cho chúng con nhớ đến những công lao to lớn cả trong công cuộc truyền giáo và trong sự phát triển của Việt Nam. Ngay tại trung tâm công giáo mục vụ, nơi chúng ta đang ở đây cũng ghi dấu ấn đậm nét của những ân tình mà Giáo Hội Pháp dành cho và chúng con cảm nhận được sự đồng hành của Giáo Hội Pháp luôn bên cạnh chúng con.

Như một tiếp bước lên đường Ðức Hồng Y trong vai trò chủ chăn đã tuyên bố kết thúc năm Sống Lời Chúa và tuyên bố khai mạc năm Phụng Vụ mới, năm Sống Ðạo.

Kết thúc ngày đón tiếp phái đoàn, Quý Giám Mục Hồng Y cùng đứng trên lễ đài ban phép lành cho mọi người hiện diện - một lời cầu chúc an lành - một lời kết ước nhớ đến nhau và cầu nguyện cho các quốc gia của nhau - một tình thân hữu mới được thiết lập giữa những thế hệ - một tương lai mới mở ra và chúng ta có quyền hy vọng vào tất cả.

 

Sr Minh Nguyên

Mục lục

Text Box: TÌM HIỂU & SỐNG ĐẠO

 

 

 

 

 


 

LỄ ĐỨC MẸ VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI 2006

SỐNG MÙA VỌNG CÙNG ĐỨC MẸ

Ngày lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, Hội Thánh muốn chúng ta suy niệm câu việc Đức Mẹ được Chúa sai thiên thần truyền tin để đón nhận bào thai Giêsu, Thiên Chúa nhập thể làm ngườI (Lc 1, 26–38). Sở dĩ Hội Thánh suy niệm đoạn Kinh Thánh này là bởi trong lời chào của thiên thần có một xác tín quan trọng: HỠI ĐẤNG ĐẦY ÂN SỦNG, Đức Chúa ở cùng Bà… Bà đẹp lòng Thiên Chúa… Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Bà”. Chính trong những lời đầy xác tín ấy của vị có thế giá nơi tòa Thiên Chúa, khiến chúng ta nhận ra ngay chỗ đứng có một không hai của Đức Mẹ trong ơn được Chúa tuyển chọn và được Chúa gìn giữ suốt đời thanh sạch. Chính trong ý nghĩa của lời xác tín có một không hai ấy, Hội Thánh tin tưởng mạnh mẽ, Đức Mẹ đã được Chúa giải thoát khỏi mọi vướng mắc của vết tích tội lỗi ngay từ buổi đầu làm người.

Nói cách khác, bởi Đức Mẹ “tràn ngập ân sủng”, luôn “có Chúa ở cùng”, luôn “đẹp lòng Chúa”, luôn được ơn Chúa Thánh Thần giải thoát và thánh hóa, được bao phủ suốt đời nhờ quyền năng Chúa… Vì thế, suốt đời Đức Mẹ thoát khỏi lây nhiễm của tội, đặc biệt, được giải thoát khỏi tội tổ truyền.

Khi được giải thoát khỏi vết nhơ của tội, cung lòng Đức Mẹ trở thành cung điện cao sang, xứng đáng Con Thiên Chúa ngự vào. Cung lòng ấy trở thành ngai vàng chúa đựng Chúa trời làm người.

Tuy nhiên, vinh dự mà Đức Mẹ có, Đức Mẹ không muốn giữ lại riêng mình. Đức Mẹ muốn chúng ta cùng được tham dự vào vinh dự ấy. Vậy ta cần làm gì để tham dự vào vinh dự lớn lao của Đức Mẹ?

Chúng ta đang sống trong mùa Vọng. Tuần đầu tiên của mùa Vọng, chúng ta lại diễm phúc mừng lễ trọng, lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên tội. Vì thế, ngay từ ngày đầu tiên của mùa Vọng, tôi thích nhìn ngắm mẫu gương sống của Đức Mẹ để được tham dự vào vinh dự mà Chúa đã ban cho Đức Mẹ. Đức Mẹ có rất nhiều nhân đức để chúng ta học đòi bắt chước để nên thánh thiện. Nhưng gắn liền với ý nghĩa của mùa Vọng, chúng ta thấy mấy nhân đức sau đây nơi Đức Mẹ, cần cho việc sống mùa vọng của chúng ta:

 

1. ĐỨC MẸ HAM THÍCH CẦU NGUYỆN.

Dù Thánh Kinh không nói gì về thờI thơ ấu, cũng như năm tháng nép mình tại quê nhà của Mẹ Thiên Chúa, nhưng ta dám quả quyết rằng, đã là người, chắc chắn, Đức Mẹ không thiếu những vất vả và mọi lo toan, mọi nỗi niềm mà cuộc sống của một con người phải vươn mang.

Nhưng với một người đầy lòng yêu mến Chúa như Đức Mẹ, hơn nữa: một Thụ Tạo được tuyển chọn để làm Mẹ của Chúa Trời làm ngườI, chắc chắn, thân xác, thờI gian, sự sống, linh mồn của NgườI không dừng lạI ở những thực tại trần thế, mà không quy hướng về Chúa, tôn thờ Chúa và cầu nguyện, chuyện trò với Chúa.

Những bằng chứng Tin Mừng nói riêng, Kinh Thánh nói chung, như xác nhận cách hết sức rõ ràng cho lòng yêu mến sự cầu nguyện của Đức Mẹ.

Chẳng hạn, ngay khi lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần trong ngày truyền tin, Đức Mẹ đã cất lời tán dương Thiên Chúa, hớn hở trong Thiên Chúa, và cất cao lời ca ngợi kỳ công Thiên Chúa đã thực hiện nơi mình. Chính trong đời sống luôn ngập chìm bằng cầu nguyện, Đức Mẹ khám phá đến tận cùng, Chúa là Đấng giàu tình yêu thương xót. Khám phá đó, đã làm cho Đức Mẹ reo lên: Chúa đã đoái nhìn đến tôi, phận nữ tỳ của Chúa  bằng một cái nhìn đầy tình thương xót.

Trong ngày lễ Ngũ Tuần, Thánh Thần được ban xuống cho Hội Thánh, không chấm dứt việc Đức Mẹ chuyên cần cầu nguyện, nhưng càng làm phong phú và mở rộng chân trờI của việc cầu nguyện nơi Đức Mẹ (Cv 1, 14). Trong thinh lặng hoàn toàn của cõi lòng để thực sự sống đời cầu nguyện, Đức Mẹ đã cảm nhận, và còn hơn sự cảm nhận, Đức Mẹ đã thực sự đón nhận việc Chúa đến với mình, sai mình cộng tác vào công trình cứu độ của Chúa.

Với thái độ của một ngườI ham thích cầu nguyện, càng ngày càng làm cho Đức Mẹ hiểu rằng, cầu nguyện liên lỷ là một thái độ căn bản, một định hướng thường hằng, là biểu lộ của một niềm khao khát Chúa. Và niềm khao khát ấy càng liên lỷ, thì cầu nguyện càng được nhân lên.

Nơi Đức Mẹ, nhờ đời sống thinh lặng và chìm lắng trong cầu nguyện, đã làm cho Đức Mẹ sống đức tin một cách sâu sắc. Thần học nơi Đức Mẹ không phải những kiến thức về Chúa, mà là chính sự sống có Chúa, một vị Chúa tràn ngập tình yêu, ham thích chiếm ngự tâm hồn kẻ mình yêu, một vị Chúa trở nên gần gũi, một vị Chúa luôn luôn ở cùng.

 

II. ĐỨC MẸ TỈNH THỨC CHỜ ĐỢI CHÚA CỨU THẾ.

Suy niệm những trang Thánh Kinh, nhất là những trang Tin Mừng liên quan đến vị trí của Đức Mẹ, ta nhận thấy một nét đẹp, nét mới mẻ nơi Đức Mẹ, đáng để ta học đòi, đó là sự tỉnh thức và chờ đợi Chúa của mình.

Như bao nhiêu người Cựu Ước cùng thời, tin tưởng lời Chúa hứa, qua lời loan báo từ các tổ phụ đến các tiên tri, Đức Mẹ chờ đợi Đấng Cứu Thế của trần gian. Lời cầu nguyện tha thiết của cả một dân tộc Thánh, của cả Sion: “TrờI cao hãy đổ sương xuống, và ngàn mây hãy mưa Đấng chuộc tội”, chắc chắn cũng là sự khắc khoải của Đức Mẹ. nếu chờ mong là phải tỉnh thức, thì nơi Đức Mẹ, càng khắc khoải trông đợi ngày cứu thế, Đức Mẹ càng tỉnh thức, càng chuẩn bị lòng mình chu đáo để Giavê thực hiện lời hứa cứu độ, điều mà Người đã hứa, và không ngừng lặp lại trong suốt dòng lịch sử.

Khi Chúa đến trần gian thực sự qua ngỏ cung lòng Đức Mẹ, Tin Mừng lại trình bày hình ảnh rất đẹp nơi Đức Mẹ, một người nữ tỉnh thức và trông đợi.

Sau biến cố truyền tin, rồi đón nhận Ngôi Lời nhập thể, không chỉ trong niềm tin, nhưng đã trở thành hiện thực nơi chính lòng dạ của mình, Đức Mẹ chờ đợi ngày Chúa giáng sinh.

Trong biến cố giáng sinh nghèo khó, đặt Thiên Chúa làm người, con của mình vào máng cỏ, chắc chắn hơn ai hết, Đức Mẹ cảm nghiệm đến vô cùng sự huyền nhiệm lạ lùng của thánh ý Thiên Chúa mà Đức Mẹ là người trước tiên phải suy tư, phải sống. Bởi luôn cưu mang và sống thánh ý Thiên Chúa trong đời mình, Đức Mẹ trở thành người của sự tỉnh thức. Bởi chỉ có tỉnh thức và chờ đợi như thế, Đức Mẹ mới dần dà hiểu và khám phá từng buớc ý Chúa đưa dẫn mình đi vào huyền nhiệm cứu độ của Người.

Vẫn chưa hết những biến cố mà Chúa thực hiện trong cuộc đời Đức Mẹ, khiến Đức Mẹ luôn tỉnh thức và chờ đợi. Chẳng hạn, sau ngày Chúa Giáng Sinh, trên đường chạy nạn và ẩn trốn trên đất Aicập, Đức Mẹ chờ đợi ngày về lại quê hương. Năm tháng, cùng con, cũng chính là Thiên Chúa của mình sống ẩn dật, nghèo hèn, cùng với việc đợi chờ sự trưởng thành về mặt con người của Người Con ấy, Đức Mẹ càng suy tư, càng thêm tỉnh thức trong sự chờ đợi quyền năng cứu độ lớn lao mà Người Con ấy thực hiện theo những gì Thiên Chúa mạc khải trên suốt dòng lịch sử ngỏ cho toàn dân.

Ơn cứu độ bắt đầu hé mở cùng với sự ra đi loan báo Tin Mừng bình an, Tin Mừng giải thoát những “người nghèo của Thiên Chúa”, chắc chắn đã làm cho Đức Mẹ vui mừng. Trong nỗi vui mừng, Đức Mẹ đã tin rằng, Người Con của mình đã thực sự là Đấng Cứu Độ, là chính Ơn Cứu Độ từ ngàn xưa của Thiên Chúa, nay đang dần thành hiện thực.

Người Nữ của sự tỉnh thức và chờ đợi ấy, lại cứ tiếp tục được Chúa đưa đi từ hết huyền nhiệm này đến huyền nhiệm khác. Dõi theo Con trên đường truyền giáo, Đức Mẹ chờ đợi những điều tốt đẹp cho Con. Nhất là cho cả nhân loại, khi nhờ Tin Mừng được loan báo, họ thực sự được giải thoát.

Khi Người Con Một dấu yêu của mình bước vào cuộc thương khó, chịu tử nạn, một lần nữa, Đức Mẹ được mời gọi tiến vào huyền nhiệm tình yêu khôn tả của Thiên Chúa đối với nhân loại, mà nơi đó, Đức Mẹ được diễm phúc hiệp công bằng sự tử đạo cùng với Con bên chân thánh giá. Hơn bao giờ, biến cố thánh giá mà Đức Mẹ tham dự vào, càng làm cho Đức Mẹ phải tỉnh thức nhiều hơn. Bởi chỉ có thế, mới có thể giúp Đức Mẹ can đảm chấp nhận ý Chúa trong đau thương, sỉ nhục tột cùng của nỗi đau thập giá.

Nhìn Con chết trên đồi Tử Nạn, đức tin của cả một đời tỉnh thức và cầu nguyện, tiếp tục đưa Đức Mẹ tiến sâu hơn vào huyền nhiệm thánh ý Chúa. Đó cũng chính là huyền nhiệm của thế giới lòng yêu mến, cậy trông, phó thác cho thánh ý Chúa. Nó giúp Đức Mẹ vững tin và chờ đợi ngày Con mình bừng lên trong sức sống mới, sức sống phục sinh tuôn trào trên cả nhân loại.

Tiếp tục hành trình tỉnh thức và chờ đợi, Đức Mẹ lại đi vào huyền nhiệm mới, đầy hân hoan: huyền nhiệm của ngày Con Một phục sinh. Chúa mời gọi Đức Mẹ sống biến cố phục sinh, để như Chúa đi trọn con đường trần thế, tiến vào vinh quang vĩnh phúc, Đức Mẹ cũng sẽ tiên phong trên hết, và trước hết mọi thụ tạo, được mời gọi chờ đợi ngày giải thoát khỏi mọi vướng bận trần thế, thừa hưởng gia nghiệp, chia sẻ vinh quang thiên quốc với Con mình.

Rồi khi Chúa về trời, Đức Mẹ lại tiếp tục thành mẫu gương sống của chúng ta, trong tỉnh thức và chờ đợi điều Người Con Một của Đức Mẹ đã hứa: ơn Chúa Thánh Thần. Được nhìn thấy tường tận ơn Chúa Thánh Thần trong ngày lễ Hiện Xuống tiên khởi, Đức Mẹ lại cùng cả Hội Thánh chờ đợi sự lan rộng của Nước Chúa nơi trần thế, tiến vào trong mỗi tâm hồn con người, làm cho triều đại của Người Con Một hằng trị đến khắp trần gian.

Ngày nay, trên thiên quốc, Đức Mẹ vẫn không quên chuyển lời cầu bàu, và luôn phù hộ đoàn con dưới thế. Đoàn con đó chính là Hội Thánh đã thực sự lan rộng như điều Đức Mẹ hằng chờ đợi. Đức Mẹ vẫn dõi mắt theo đoàn con và mong ngày sum họp, để Hội Thánh mà Đức Mẹ vẫn luôn yểm trợ, sẽ cùng Đức Mẹ sống vĩnh phúc nơi quê hương bình an.

Qua tất cả những biến cố thăng trầm trong cuộc đời, trong niềm tin, lòng yêu mến Chúa, suốt đời Đức Mẹ là một bài học lớn lao cho ta về sự tỉnh thức và chờ đợi. Hãy cùng Đức Mẹ, ta tiếp tục sống mùa vọng 2006 này. Hơn thế, trong khi chờ đợi ngày cứu độ toàn thể mà Chúa dành cho ta, thì cuộc sống trần thế của ta cũng chính là một mùa Vọng. Vậy ta cũng hãy sống mùa Vọng cuộc đời mình rập theo khuôn mẫu mà Đức Mẹ đã sống, để như Đức Mẹ, khi  hoàn thành mùa vọng cuộc đời, ta sẽ hạnh phúc thừa hưởng vinh quang mà Thiên Chúa dành cho những tôi tớ trung thành của Người.

 

********** ---------- **********

 

Như Đức Mẹ, chúng ta bước vào đời sống cầu nguyện liên lỉ và tỉnh thức không bao giờ ngơi, để trong sự chờ đợi khi còn ở trần gian, ta hoàn thành phận của người lữ hành cách hết sức, hết khả năng, hết nghị lực có thể.

Nếu Đức Mẹ đã xuất sắc hoàn thành đời mình trong tinh thần ham thích cầu nguyện, trong tinh thần tỉnh thức và chờ đợi luôn luôn nơi tình yêu quan phòng của Chúa, thì đó cũng chính là bài học Chúa dạy chúng ta bằng chính cuộc đời của Đức Mẹ. 

Mùa Vọng mời gọi ta sống mãnh liệt thân phận của mình, một thân phận bất toàn, dang dở. Sống mãnh liệt thân phận của mình, giúp ta sử dụng hết mức, vươn tới hết mức, tha thiết hết mức, và sống hết mức tất cả những gì Chúa ban, tất cả những gì là lợi thế của ta trên đường tiến về thiêng liêng.

Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, cũng là lúc ta sống mùa Vọng. Hãy nhìn lên Đức Mẹ mà tin vào tình yêu của Chúa. Chúa đã “nhìn đến phận hèn Tớ Nữ Chúa”, Chúa cũng dành cho ta tình yêu lớn lao vô cùng như thế. Chúa giải thoát Đức Mẹ khỏi lây nhiễm của vết nhơ tội lỗi. Chúa sẽ làm cho ta tinh tuyền như Đức Mẹ. Phần ta, đừng quên để Chúa chiếm ngự mình bằng việc hoàn thành mùa vọng cuộc đời trong sự cầu nguyện liên lỉ và luôn tỉnh thức đợi chờ ơn Chúa cứu độ như Đức Mẹ đã từng sống và đã thành công.

Lm. VŨ XUÂN HẠNH

Mục lục

 

 

Bài giảng của Ðức Thánh Cha Beneđitô XVI tại Nhà Thờ Chính Tòa Chúa Thánh Thần ở Istanbul

 

Bài giảng của Ðức Thánh Cha Beneđitô XVI trong thánh lễ thứ hai và cũng là thánh lễ cuối cùng của chuyến viếng thăm bốn ngày tại Thổ Nhỉ Kỳ, được cử hành vào sáng thứ Sáu mùng 1 tháng 12 năm 2006, tại Istanbul.

(Radio Veritas Asia 6/12/2006) - Ðức Thánh Cha Beneđitô XVI cử hành thánh lễ tại Nhà Thờ Chính Toà Chúa Thánh Thần, ở Istanbul, tức Costantinopoli ngày xưa, vào sáng thứ Sáu mùng 1 tháng 12 năm 2006, trước khi lên đường trở về lại Roma, với sự hiện hiện của hai vị Thượng Phụ Giáo Chủ, -- Ðức Giáo Chủ Bartolomeo I, giáo chủ chính thống giáo Costantinopoli, và Ðức Giáo Chủ Mesrob II của giáo hội Armêni, và cả những đại diện của những tôn giáo khác. Vì thế, bài giảng của Ðức Thánh Cha có ba đặc tính: tính cách tổng kết về chuyến viếng thăm trong vòng 4 ngày qua, tại Thổ Nhỉ Kỳ, tính cách đối thọai đại kết cổ võ sự hiệp nhất kitô, và tính cách đối thọai liên tôn giữa các tôn giáo khác nhau. Chính trong viễn tượng nầy mà Ðức ThánhCha Bênêđitô XVI đã quả quyết vào cuối bài giảng của ngài như sau: "Giáo Hội không áp đặt bất cứ điều gì trên bất cứ ai, nhưng chỉ đơn thuần yêu cầu được sống trong tự do để biểu lộ Chúa Giêsu Kitô, Ðấng đã yêu thương chúng ta cho đến cùng trên thập giá." Ðây, kính mời quý vị và các bạn theo dõi bản dịch tiếng Việt nguyên văn bài giảng của ÐTC như sau:

 Anh chị em thân mến,

Vào cuối chuyến viếng thăm mục vụ tại Thổ Nhỉ Kỳ, Tôi vui mừng được gặp cộng đồng công giáo tại Istanbul và được cử hành thánh thể với cộng đoàn để cảm tạ Chúa vì tất cả mọi hồng ân.

Trước hết Tôi xin chào Ðức Thượng Phụ Giáo Chủ Costantinopoli, Ngài Thánh Ðức Bartolomêô I, và chào Ðức Thượng Phụ Armêni, Ngài Thánh Ðức Mesrob II, chào quý chư huynh đáng kính, những vị đã muốn kết hiệp với chúng tôi cho buổi cử hành này. Tôi xin nói lên lòng biết ơn sâu xa của tôi đối với quý Ngài, vì cử chỉ huynh đệ này mang đến vinh hạnh cho cộng đoàn công giáo.

(Ðặng Thế Dũng xin thêm một chi tiết giải thích: trong lời chào nhau, ÐTC và các Ðức Thượng Phụ giáo chủ, cùng dùng một từ là "Santità, His Holiness" để chào nhau, không còn phân biệt nữa. Từ Santità, Holiness, được chúng ta dùng để dịch "Ðức Thánh Cha". Nhưng không thể dùng cùng một từ "Ðức Thánh Cha" để gọi Ðức Giáo Chủ Chính Thống Giáo Costantinopoli. Vì thế, chữ ÐTC này xin tạm dịch bằng một từ khác nơi đây, -- nhưng có cùng một từ gốc -- "Thánh" -- "Ngài Thánh Ðức". Chúng ta đọc tiếp bài giảng như sau:)

Thưa chư huynh thân mến và là những người con của Giáo Hội Công Giáo, quý giám mục, linh mục, phó tế, tu sĩ nam nữ và anh chị em giáo dân, những tín hữu thuộc về các cộng đoàn khác nhau tại thành phố Istanbul này và những anh chị em tín hữu thuộc về những nghi lễ khác nhau của Giáo Hội, Tôi vui mừng chào thăm tất cả, vừa lặp lại cho quý anh chị em những lời của thánh Phaolô trong thư gởi cho cộng đoàn Galata như sau: "Nguyện chúc anh chị em được ân sủng và bình an đến từ Thiên Chúa, Cha chúng ta và là Cha của Chúa Giêsu Kitô" (Gal 1,3).

Tôi xin chào quý Thẩm Quyền dân sự hiện diện nơi đây, vì đã đón tiếp tôi với hết lòng tế nhị; một cách đặc biệt, tôi xin chào tất cả những vị đã góp phần giúp cho chuyến viếng thăm này có thể thực hiện được. Cuối cùng tôi xin chào những đại diện của những cộng đoàn giáo hội khác và chào những vị đại diện của các tôn giáo khác đã muốn có mặt giữa chúng tôi. Làm sao không nghĩ đến những biến cố khác nhau đã nhào nắn lịch sử chung của tất cả chúng ta, tại chính nơi đây? Ðồng thời, tôi cảm thấy bổn phận đặc biệt nhớ đến biết bao chứng nhân cho Tin Mừng của Chúa Kitô; các ngài đang thôi thúc chúng ta làm việc chung với nhau cho sự hiệp nhất của tất cả mọi môn đệ Chúa trong sự thật và trong tình bác ái !

Trong Nhà Thờ Chính Toà Chúa Thánh Thần này đây, tôi muốn cảm tạ Thiên Chúa, vì tất cả những gì Ngài đã hoàn thành trong lịch sử con người và khẩn xin Thiên Chúa đổ tràn xuống trên tất cả chúng ta những hồng ân của Chúa Thánh Thần, Thánh Thần của sự Thánh Thiện. Như thánh Phaolô vừa nhắc lại cho chúng ta, Chúa Thánh Thần là nguồn mạch thường hằng của Ðức Tin và của sự hiệp nhất chúng ta. Chúa Thánh Thần khơi dậy trong chúng ta sự hiểu biết đúng thật về Chúa Giêsu và đặt trên môi miệng chúng ta những lời của Ðức Tin, ngõ hầu chúng ta có thể nhìn nhận Chúa. Chúa Giêsu đã nói với thánh Phêrô sau biến cố tuyên xưng đức Tin tại Cesarêa như sau: "Phúc cho con, hỡi Simon, con ông Giona: bởi vì không phải xác thịt cũng không phải máu huyết đã mạc khải cho con biết điều đó, nhưng là Cha Thầy Ðấng ngự trên trời" (Mt 16,17). Phải, chúng ta được chúc phúc, khi Chúa Thánh Thần mở rộng tâm hồn chúng ta để lãnh nhận niềm vui Ðức Tin, và khi ngài làm cho chúng ta bước vào trong đại gia đình những người Kitô, tức Giáo Hội của Chúa, một Giáo Hội đa diện với những hồng ân khác nhau, những vai trò và những hoạt động khác nhau, vừa đồng thời cũng là một Giáo Hội duy nhất. "bởi vì luôn chỉ có một Thiên Chúa duy nhất đang họat động trong tất cả". Thánh Phaolô còn nói thêm như sau: "Mọi nguời đều lãnh nhận hồng ân để biểu lộ Chúa Thánh Thần, ngõ hầu tất cả mọi người được ơn ích. Biểu lộ Chúa Thánh Thần, sống theo Chúa Thánh Thần, không có nghĩa là chỉ sống cho riêng mình, nhưng có nghĩa là học hỏi cách làm cho mình được luôn giống như Chúa Giêsu Kitô, và như thế trở thành kẻ phục vụ anh chị em của mình, noi theo gương sống của Chúa. Thưa quý chư huynh, đây quả thật là một giáo huấn thật cụ thể cho mỗi người chúng ta, những Giám Mục, những kẻ được Chúa gọi hướng dẫn dân Chúa, vừa biến mình trở thành những kẻ phục vụ, noi theo gương của Chúa; giáo huấn này có giá trị cho tất cả mọi thừa tác viên của Chúa cũng như cho tất cả mọi tín hữu: khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội, chúng ta tất cả được nhập vào trong cái chết và sống lại của Chúa; "niềm khao khát của chúng ta được thỏa mãn bởi cùng một Chúa Thánh Thần", và sự sống của Chúa Kitô đã trở thành sự sống chúng ta, ngõ hầu chúng ta sống như Chúa Kitô, (ngõ hầu) chúng ta yêu thương anh chị em chúng ta như chính Chúa đã yêu thương chúng ta (x. Gn 13,34).

Cách đây 27 năm, trong chính nhà thờ chính toà này, vị tiền nhiệm của tôi, đầy tớ Chúa Gioan Phaolô II, đã cầu chúc bình minh của một ngàn năm mới có thể "xuất hiện trên một giáo hội đã gặp lại được sự hiệp nhất trọn vẹn của mình, để làm chứng tốt hơn, giữa những căng thẳng chua cay của thế giới, (làm chứng) cho tình thương siêu việt của Thiên Chúa, được thể hiện nơi Chúa Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa." (trích Omelia tại nhà thờ Istanbul, số 5). Lời cầu chúc này chưa thực hiện được, nhưng ước muốn của vị giáo hoàng vẫn luôn như vậy, và thôi thúc tất cả chúng ta, những môn đệ của Chúa Kitô, những kẻ đang tiến tới với những sự chậm chạp của mình và với những sự khốn cùng của mình trên con đường dẫn đến sự hiệp nhất, -- (thôi thúc chúng ta) hãy hành động không ngừng "trong viễn tượng của sự tốt lành cho tất cả", vừa đặt viễn tượng đại kết vào chỗ thứ nhất trong số những quan tâm của chúng ta cho Giáo hội. Lúc đó, chúng ta sẽ sống thật sự theo Thánh Thần của Chúa Giêsu, để phục vụ điều thiện hảo của tất cả mọi người.

Họp nhau sáng hôm nay tại nơi cầu nguyện này, nơi đã được thánh hiến cho Chúa, làm sao chúng ta không nhắc đến một hình ảnh đẹp khác nữa mà thánh Phaolô dùng để nói về Giáo Hội, hình ảnh của việc xây nhà, trong đó những viên đá được gắn liền với nhau, khắng khít với nhau, để xây lên cùng một ngôi nhà, mà viên đá góc để tất cả tựa vào, là Chúa Kitô? Chính Chúa Kitô là nguồn mạch của sự sống mới mà Thiên Chúa Cha ban cho chúng ta, trong Chúa Thánh Thần. Bài phúc âm theo thánh Gioan đã công bố điều này như sau: "Dòng nước hằng sống sẽ vọt lên từ tâm hồn của kẻ tin". Dòng nước trào dâng này, dòng nước hằng sống mà Chúa Giêsu đã hứa cho người đàn bà Samari, các tiên tri Zaccaria và Ezêchiel, đã nhìn thấy dòng nước đó, phát xuất từ bên hông Ðền Thờ, để làm sinh động lại những dòng nước của Biển Chết: đó là hình ảnh tuyệt vời của lời hứa sự sống mà Thiên Chúa đã luôn thực hiện cho dân Ngài và là lời hứa mà Chúa Giêsu đến để làm cho nên trọn. Trong một thế giới mà con người gặp phải biết bao khó khăn để chia sẻ cho nhau những của cải vật chất, và là thế giới mà con người bắt đầu quan tâm -- và đây quả thực là quan tâm đúng -- về sự khô cạn nguồn nước, một nguồn nước rất cần cho sự sống của thể xác, (trong một thế giới như thế) giáo hội thấy mình có rất phong phú một điều thiện hảo cao cả hơn. Là nhiệm thể của Chúa Kitô, Giáo Hội đã lãnh nhận trách vụ rao giảng Tin Mừng cho đến tận cùng trái đất (x. Mt 28,19); điều này có nghĩa là thông truyền cho mọi người nam nữ thời đại chúng ta đây tin vui mừng, một tin vui không những soi sáng cho, mà còn thay đổi đời sống của họ, cho đến lúc vượt qua và chiến thắng chính sự chết. Tin Vui Mừng này không chỉ là một Lời Nói, mà là một Con Người, một Ngôi Vị, là chính Chúa Kitô phục sinh, Ðấng hằng sống! Với ân sủng của các bí tích, dòng nước phát sinh từ cạnh sườn Chúa, cạnh sườn đã được mở ra trên thập giá, (dòng nước này) trở thành một nguồn mạch tuôn trào "dòng nước hằng sống", một hồng ân mà không ai có thể chận lại, một hồng ân trao ban sự sống. Làm sao những người kitô có thể chỉ giữ lại chỉ cho riêng mình, điều mà họ vừa lãnh nhận? Làm sao họ có thể đoạt lấy kho tàng này và đem dấu đi nguồn mạch này? Sứ mạng của Giáo Hội không hệ tại ở việc bênh vực cho những quyền hành, cũng không phải để nhận lấy sự giàu sang. Sứ mạng của Giáo Hội là trao ban Chúa Kitô, là tham dự vào sự sống của Chúa Kitô, điều thiện hảo quý báu nhất cho con người, điều thiện hảo mà Thiên Chúa ban cho chúng ta qua trung gian chính Con Một Ngài.

Thưa anh chị em, những cộng đoàn của anh chị em đi theo con đường khiêm tốn của sự đồng hành hằng ngày với những con người không cùng chia sẻ đức tin chúng ta, nhưng tuyên bố mình "có đức tin của Abraham và cùng với chúng ta tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất và nhân từ (hiến chế của Công Ðồng Vaticanô II về Giáo Hội -- Ánh sáng muôn dân, Lumen gentium, số 16). Anh chị em hãy biết rõ rằng Giáo Hội không muốn áp đặt bất cứ điều gì trên bất cứ ái, nhưng chỉ đơn thuần yêu cầu được sống tự do để biểu lộ Ðấng mà Giáo Hội không thể che giấu, là Chúa Giêsu Kitô, Ðấng đã yêu thương chúng ta cho đến cùng trên thập giá và đã trao ban cho chúng ta Thánh Thần của Người, sự hiện diện sống động của Thiên Chúa giữa chúng ta và trong tận cõi thâm sâu nhất của mỗi người chúng ta. Anh chị em hãy luôn mở rộng đón nhận Thánh Thần của Chúa Kitô và vì thế, anh chị em hãy chú ý đến những ai đang đói khát sự công bằng, hoà bình, phẩm giá, sự tôn trọng bản thân cũng như sự tôn trọng đối với những anh chị em lân cận. Anh chị em hãy sống với nhau đúng theo như lời dạy của Chúa: "Theo dấu nầy người ta biết chúng con là môn đệ của Thầy, là chúng con yêu thương nhau" (Gn 13,35).

Thưa anh chị em, trong giây phút này, chúng ta hãy phó thác ao ước của chúng ta muốn phụng sự Chúa, cho Ðức Nữ Ðồng Trinh Maria, Mẹ Thiên Chúa và là Nữ Tì của Chúa. Mẹ đã cầu nguyện trong Phòng Tiệc Ly cùng chung với cộng đoàn nguyên thủy, trong khi chờ đợi Chúa Thánh Thần ngự xuống. Cùng với Mẹ, giờ đây chúng ta hãy cầu cùng Chúa Kitô như sau: Lạy Chúa, xin sai Thánh Thần Chúa đến trên toàn thể Giáo Hội; nguyện xin Chúa Thánh Thần ngự trong mỗi người chúng con, thành phần của Giáo Hội và xin Chúa Thánh Thần làm cho mọi thành phần giáo hội trở thành những sứ giả của Tin Mừng Chúa. Amen.

 

(Bản dịch Việt ngữ của Ðặng Thế Dũng)

Mục lục

 

Thư Mục Vụ Mùa Vọng 2006 của ĐGM Mỹ Tho :

 

TÔI ĐẶT HY VỌNG VÀO CHÚA

 

Kính gởi các linh mục, tu sĩ, chủng sinh,

Và toàn thể anh chị em giáo dân giáo phận Mỹ Tho.

Anh chị em thân mến,


Năm 2006 vừa qua, thế giới đã trải qua nhiều biến động đau thương như trận chiến đẩm máu ở Liban, cuộc nội chiến sắc tộc và tôn giáo ở Sudan, chiến tranh đầy hận thù ở Irak và tại Thánh địa Israel-Palestine; nhiều thiên tai dữ dội, mà gần nhất là cơn bão Durian ở Phi Luật Tân. Ở Việt Nam chúng ta, miền Duyên hải Trung phần đã gánh chịu những trận bão làm thiệt hại nhiều tài sản và nhân mạng. Một ít người, dựa vào những sự kiện như vậy để đưa ra những lý luận vẩn vơ về ngày tận thế.


Tôi muốn anh chị em có những suy nghĩ sâu xa và đạo đức hơn. Hãy cố gắng đọc những dấu chỉ của thời đại dưới ánh sáng Mạc khải của Lời Chúa trong Mùa Vọng. Theo như tôi, sự kiện đáng lưu ý nhất và đáng là bài học cho chúng ta trong Mùa Vọng năm nay là chuyến đi Thổ Nhỉ Kỳ của Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI.

 

Tôi muốn dành trọn thư mục vụ này để nói về gương nhân đức trông cậy của ngài. Trông cậy là một nhân đức đặc biệt của Mùa Vọng, khá quen thuộc và dễ hiểu đối với mọi người có đạo. Tôi nghĩ rằng phần lớn anh chi em đều trông cậy vào Chúa, nhưng vẫn chưa đủ, và vì thế nhiều người chưa được bình an và vui sống.


Trong ngôn ngữ ngày nay, người ta dùng từ hy vọng nhiều hơn là chữ trông cậy. Tôi cũng dùng từ ngữ đó để diễn tả tâm tình quan trọng nhất mà tôi muốn gợi lên cho anh chị em năm nay là “chúng ta đặt hy vọng vào Chúa”.

 

Anh chị em thân mến, nếu được phép suy đoán tâm tình đạo đức trong lòng Đức Thánh Cha, suốt những ngày chuẩn bị chuyến đi mục vụ đại kết của ngài, tôi xin được đọc trong trái tim của ngài tâm tình được diễn tả qua câu thánh ca Việt nam quen thuộc với chúng ta: Tôi đặt hy vọng vào Chúa, tôi tin vững vàng Lời Chúa đã hứa.


Ý nghĩa sâu xa nhất của Mùa Vọng chính là để khơi dậy, nuôi dưỡng niềm hy vọng kitô giáo trước bao nhiêu sóng gió của cuộc đời, thách đố của thời đại, bóng tối của lịch sử, trước những sự dữ lan tràn và các âm mưu của thần dữ.


Lời của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng Chúa Nhật I Mùa Vọng chứa đựng những hình ảnh thật sống động: “Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét. Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc, chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu” (Lc 21, 25-26).


Mới trong những tháng vừa qua, đã xảy ra những cuộc biểu tình khắp nơi trong các nước Hồi giáo. Các lãnh đạo chính trị và tôn giáo tại các nước đó đã nói lên những lời phê phán chỉ trích gắt gao nhằm vào một đoạn trích dẫn của Đức Thánh Cha trong bài diễn văn của ngài tại Đại học Regensburg ở nước Đức; đoạn trích mà ngài dùng để làm nổi bật ý tưởng là không nên dựa vào lý do tôn giáo để mà bạo động, trái lại hãy bình tĩnh mà sử dụng lý trí thì mới có thể tiến hành được những cuộc đối thoại rất cần thiết trên mọi bình diện.


Có lẽ vì trong môi trường Đại học, nên Đức Thánh Cha chỉ nghĩ đến tư cách của một giáo sư đang nói chuyện với những con người trí thức. Một số báo chí đã đưa câu trích dẫn ấy ra khỏi văn mạch bài diễn văn và đã tạo ra nhiều ngộ nhận. Trước những ngộ nhận quá khủng khiếp ấy, Đức Thánh Cha đã tỏ ra hối tiếc, vì không ngờ mình đã làm mất lòng thế giới Hồi giáo, nhưng ngài vẫn rất bình tĩnh, vì một dạ tin tưởng vào Chúa, đặt niềm hy vọng vào Chúa.


Không có một sự hiểu lầm nào mà không giải toả được, dù nó trầm trọng đến mấy, nhờ ánh sáng và tình yêu của Chúa và nhờ thiện chí của con người. Đức thánh Cha tin tưởng tuyệt đối vào Chúa, nên ngài cũng tin tưởng vào con người. Ngài tin tưởng vào các anh em Hồi giáo, những người có cùng tổ phụ Abraham với chúng ta, những người tin tưởng vào Thượng Đế, dù niềm tin của họ còn những khác biệt cơ bản với chúng ta.


Đã có nhiều người nghĩ rằng Đức Thánh Cha sẽ huỷ bỏ chuyến đi Thổ Nhỉ Kỳ, vì quá nguy hiểm cho tính mạng và uy tín của ngài, sợ có thể gây thêm một làn sóng phản đối mới còn lớn hơn trước. Là một con người rất khiêm tốn và dịu dàng, Đức Thánh cha vẫn thực hiện Lời của Chúa là đứng thẳng và ngẩng đầu lên (Lc 21, 27); ngài thật giống như thánh Stêphanô, trước sự chống đối của người Do Thái, chăm chú nhìn vào Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây.

 

Dựa trên những bài tường thuật về chuyến đi của ngài, chúng ta chứng kiến những sự lạ lùng chưa từng thấy. Thiên Chúa đã biến đổi ác cảm thành cảm tình dào dạt dành cho Đức Thánh Cha, từ giới chính trị gia, đến giới trí thức Hồi giáo, và cả giới lãnh đạo tôn giáo. Đức Thánh Cha đã minh chứng một sự can đảm phi thường, sự can đảm của Tình yêu mà ngài rao giảng trong thông điệp “Thiên Chúa là Tình Yêu”.

 

Anh em Hồi Giáo tin Thiên Chúa, chúng ta cũng tin chỉ có một Thiên Chúa, mà Thiên Chúa đó là Tình Yêu, nên Đức Thánh Cha muốn nói với anh em Hồi giáo về Tình yêu của Thiên Chúa. Và ngài đã yêu các anh em ấy, quý trọng các anh em ấy bằng Tình yêu của Thiên Chúa. Các anh em Hồi giáo đã nhận ra sự thành thật của ngài.


Khi tiễn đưa Đức Thánh Cha ra phi trường để trở về Roma, viên Thị Trưởng thành phố Istanbul đã mời Đức Thánh Cha trở lại Istanbul khi có cơ hội, Đức Thánh đã trả lời cách rất chân thành và đơn sơ: “Tôi già rồi, tôi không biết Chúa còn cho tôi bao nhiêu thời gian. Chúng ta trao phó mọi sự trong tay Ngài”.


Bài học mà Đức Thánh Cha dạy cho chúng ta là một bài học tình yêu như lời thánh Phaolô trong thư 1Tx: “Xin Chúa cho tình thương của anh em đối với nhau và đối với mọi người ngày càng thêm đậm đà thắm thiết, cũng như tình thương của chúng tôi đối với anh em vậy” (1 Tx 3, 12).

 

Anh chị em thân mến, trong thân phận lữ thứ trần gian, mọi người trong giáo phận chúng ta hãy yêu thương nhau và yêu thương những người ngoài kitô giáo trên đất nước chúng ta nhiều hơn nữa. Làm sao để mọi người hiểu rằng tình yêu của người kitô hữu là tình yêu thành thật không man trá. Những điều ác và xấu, không thể bảo là tốt được, nhưng tình yêu của chúng ta thông phần vào Tình yêu của Thiên Chúa, có thể rút từ những sự dữ người khác làm cho mình những điều tốt lành thánh thiện. Thời gian lữ thứ là thời mà tình yêu còn có thể biến đổi con người, cá nhân cũng như tập thể, biến đổi xã hội và đất nước.


Một bài học khác của Mùa Vọng là bài học kiên trì như Lời Chúa đòi hỏi: “Ai kiên nhẫn đến cùng thì sẽ được cứu thoát”. Thánh Phaolô cũng dạy chúng ta: “Chúa sẽ cho anh em được bền tâm vững chí, được trở nên thánh thiện, không có gì đáng chê trách, trước nhan Thiên Chúa là Cha chúng ta, trong ngày Đức Giê-su, Chúa chúng ta, quang lâm cùng với các thánh của Người” (1Tx 3, 13).


Đức Thánh Cha làm gương cho chúng ta về sự kiên trì trong sứ mạng rao giảng Tin Mừng, trong việc loan báo Tình yêu và Chân lý; ngài can đảm và kiên nhẫn bảo vệ chân lý cho đến cùng, dù bị nhiều người coi là bảo thủ. Thực ra, qua thông điệp “Thiên Chúa là Tình Yêu”, ai cũng phải công nhận rằng ngài là một con người rất mạnh dạn, không ngại đảm nhận và gọi đúng tên những gì cần phải đề cập.


Bài học sau cùng và quan trọng nhất, đó là bài học tỉnh thức và cầu nguyện như Lời Chúa dạy cho ta trong Mùa Vọng: “Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người" (Lc 21, 36).

 

Đức Thánh Cha Bênêđictô của chúng ta quả là một người canh đêm tỉnh táo, sáng suốt và can đảm. Ngài lưu ý Giáo hội và cả thế giới những hiểm nguy của bóng tối mà nhiều người hôm nay lầm tưởng là ánh sáng, điển hình là những chủ nghĩa độc tài mới đang thống trị thế giới như chủ nghĩa duy tương đối, chủ nghĩa duy thế tục. Chân lý bị đe doạ biến mất trong một thế giới thuần chủ quan: người ta hành động theo điều mình suy nghĩ và ước muốn một cách chủ quan.

 

Đức Thánh Cha còn là một con người cầu nguyện: cả giáo triều Roma, cả Giáo hội hoàn vũ cầu nguyện với ngài và cho ngài trước chuyến đi Thổ Nhĩ Kỳ. Lời cầu nguyện đã biến đổi chuyến đi mục vụ đầy hiểm nguy của ngài trở thành một chuyến đi bình an và thanh thản, như lời ngài nói trước khi rời bỏ phi trường Istanbul.


Các Giáo hội Chính Thống giáo Byzantin ở Constantinople và Arménien ở Istanbul đã rất vui vẻ vì đã được Giáo chủ Giáo hội Roma đến thăm, biểu lộ sự hiệp thông và ước muốn hợp nhất. Giáo hội Byzantin, Arménien và Roma cùng chia sẻ với nhau một niềm hy vọng vào Lời Chúa hứa: “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi" (Ga 12, 32). Cả ba đều muốn đáp ứng lời cầu nguyện hợp nhất của Chúa Giêsu: “để tất cả nên một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta. Như vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai Con” (Ga 17, 21).


Giáo hội Công giáo, một thiểu số rất nhỏ là chỉ có 30.000 người cũng được an ủi, vì được Đức Thánh Cha viếng thăm. Ngài đã cùng với giáo dân cầu nguyện cho vị linh mục mới bị sát hại vào khoảng đầu năm.


Anh chị em thân mến, qua việc đọc các dấu chỉ thời đại bằng cái nhìn Đức Tin sâu sắc như trên, tôi tha thiết kêu gọi anh chị em sống Mùa Vọng 2006 với niềm Hy Vọng mãnh liệt, và ở bất cứ hoàn cảnh nào của cuộc sống, hãy để cho “Thiên Chúa là Tình Yêu” ngự trị trên nỗi yếu hèn của bản thân chúng ta. Tôi tin tưởng và hy vọng nơi tình thương của anh chị em và nguyện ước mỗi chúng ta có thể vui mừng cất tiếng hoà ca với các Thiên Thần trong đêm Giáng Sinh: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, và bình an dưới thế cho người thiện tâm !”


Mỹ Tho, ngày 4-12-2006

 

Giám Mục Giáo Phận Mỹ Tho


+ Phaolô BÙI VĂN ĐỌC

 

Mục lục

 

Mùa thiếu phụ Nam Xương

 

Mùa Vọng, mùa trông ngóng đợi chờ của người Kitô hữu nhắc nhở câu chuyện thiếu phụ Nam Xương. Ngày xưa, bởi người chồng lên đường chinh chiến phương xa, đêm đêm người vợ ở nhà đốt sáng ngọn đèn, chỉ bóng mình trên tường, nói với con thơ, “Bố đó”. Cuối cùng người chồng cũng quay về, nhưng người con lại không nhận mặt bố. Người chồng do đó nghi ngờ lòng thủy chung của vợ. Buồn tủi cho thân phận, thiếu phụ Nam Xương trầm mình xuống dòng sông chết đi để chứng tỏ tấm lòng son sắt của phụ nữ Việt Nam. Về sau, vua Lê Thánh Tôn đi ngang qua, thấy miếu tưởng niệm thiếu phụ Nam Xương nghi ngút nhang khói, ngài viết xuống bài thơ Viếng Vũ Thị thầm trách người chồng không tỉnh thức, nghi ngờ lòng dạ tiết trinh của vợ mình,


Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương,

Miếu ai như miếu vợ chàng Trương?

Ngọn đèn dầu tắt, đừng nghe trẻ,

Làn nước chi cho lụy đến nàng!


Mùa Vọng đã tới, tương tự như thiếu phụ Nam Xương của thuả xưa, người Kitô hữu cũng bắt đầu đốt ngọn nến Vọng, nhìn ra khung cửa sổ, trông ngóng bóng dáng của Ngôi Lời Nhập Thể. Nhưng, hãy coi chừng! Nếu không tỉnh thức, không cẩn thận, chúng ta sẽ không nhận ra Con Trời đang đứng gõ ngay bên khung cửa.


Không tỉnh thức, chúng ta không còn khả năng nhận ra Thiên Chúa, dù rằng Ngài đang đứng ngay bên cạnh. Bởi thế, có người tiếp tục kêu than, “Chúa ơi, sao Ngài bỏ con? Chúa ơi, Chúa đâu rồi?” Nhưng công tâm mà nói đã rất nhiều lần không phải là Chúa bỏ con, nhưng thật sự ra là con đang bỏ Chúa, bởi vì hào quang của vật chất đã khiến con mờ mắt. Cho nên mặc cho Thiên Chúa vẫn cứ đang đứng ngay bên khung cửa, gõ cửa, và mời gọi, “Đây Chiên Thiên Chúa! Đây Ngôi Lời Nhập Thể!”, con vẫn không nhận ra tiếng gọi Thiên Đàng và hình dạng Trời Cao.


Không tỉnh thức, chúng ta sẽ quên đi mất phần cốt lõi của Mùa Vọng và Mùa Giáng Sinh là chờ đợi và trao tặng, như trần gian năm xưa đã từng chờ đợi giây phút thiên đàng trao tặng món quà vĩ đại Trời Cao nhập thể trong hình dạng của một trẻ thơ. Thiếu vắng phần cốt lõi, chúng ta hụt một nhịp chân, thế là chúng ta lao đao vấp ngã té xiêu theo những ngọn gió của bề nổi vật chất bên ngoài.

 

Mùa Vọng tới, có một cặp vợ chồng, chồng muốn dựng cây Giáng Sinh lấp lánh ánh điện bên khung cửa sổ để hàng xóm cũng có cơ hội thưởng thức ánh sao chớp sáng từ cây Noel xinh đẹp. Nhưng người vợ lại không chịu, nàng nói em muốn cây thông đứng cạnh bên lò sưởi đang nổ tí tách lửa đỏ, nhìn có vẻ lãng mạn hơn. Chàng không nghe nàng, vẫn cứ dựng cây thông bên khung cửa. Vợ không chịu chồng, cứ đòi dựng cây thông bên lò sưởi. Hai bên nói qua nói lại mấy câu. Nàng giận, nàng bỏ về phòng nằm khóc. Chàng tức, chàng lái xe đi ra ngoài uống café với bạn. Tối về tới nhà, nhà tối đen. Bật đèn lên, chàng nhìn thấy miếng giấy viết mấy chữ báo cho chàng biết là nàng đã mua vé máy bay về ăn Giáng Sinh với bố mẹ. Thế là hết Mùa Vọng, xong mùa Giáng Sinh.


Mùa Vọng tới, ai trong chúng ta cũng muốn tỏ lộ tình thương mến tới người thân qua những món quà bọc trong gói giấy. Hãy tỉnh thức, đừng hăm hở biến mình thành những con thiêu thân, chỉ biết lao đầu vào những thương xá tìm kiếm mua những món quà đắt rẻ.

 

Mùa Vọng tới, căn nhà thân yêu cần phải trang hoàng với những ngọn đèn sao sáng lấp lánh; và đặc biệt sau thánh lễ Nửa Đêm, cả gia đình sẽ quây quần ăn uống chào mừng Giáng Sinh. Hãy tỉnh thức, hãy coi chừng, đừng để thời gian trang hoàng nhà cửa và nấu nướng thức ăn lấy hết đi thời gian dành riêng cho đời sống tâm linh của Mùa Vọng. Hãy cẩn thận với tiệc Noel, đừng để rượu Noel biến mùa Giáng Sinh thành mùa than khóc.


Mùa Vọng tới, hãy đốt bốn ngọn nến Vọng tỉnh thức ngồi đan máng cỏ lòng dâng tặng Hài Nhi Thánh bằng cách bắt chước Người Con Hoang Đàng một lần đứng dậy về lại căn nhà xưa hòa giải với Cha của mình. Nếu được, hãy làm một việc bác ái, hoặc cho mình, hoặc cho những người thân chung quanh.


Người chinh phu họ Trương của ngày xưa không tỉnh thức, khiến mùa đoàn tụ trở thành mùa tang tóc. Nếu không tỉnh thức, chúng ta cũng sẽ trở thành một chàng Trương của thời đại mới. Những chàng Trương của thiên niên kỷ thứ ba dư thừa khả năng biến mùa Vọng, mùa của hy vọng trở thành một mùa của mất hy vọng và mất niềm tin.


Lạy Chúa, trong Mùa Vọng, xin đừng để con ngủ quên với máng cỏ vật chất, nhưng tỉnh thức trông ngóng giây phút Con Trời nhập thể. Để khi Chúa đến, con hân hoan chạy ra, mở cửa, đón mời Hài Nhi Thánh vào trong máng cỏ tâm hồn của con.

 
LM Nguyễn Trung Tây, SVD

Mục lục

 

TÀI LIỆU TUẦN THƯỜNG HUẤN LINH MỤC GIÁO PHẬN ĐÀLẠT 2006

 

DEUS CARITAS EST :

LỜI GIẢI ĐÁP CHO CÁC VẤN NẠN

CỦA CON NGƯỜI ĐƯƠNG THỜI

 

 

DẪN NHẬP

Kể từ cuối thế kỷ 19 sang thế kỷ 20, thông điệp của Đức Giáo Hoàng luôn là một trong những nguồn giáo huấn quan trọng của Kitô giáo. Cách riêng, với Đức Bênêđictô, thông điệp đầu tiên của Ngài đã được mong đợi với một sự háo hức lạ kỳ. Người ta trông đợi giáo huấn của ngài trong tư cách vị mục tử Giáo Hội Công Giáo toàn cầu để xem Ngài sẽ vạch địch kế hoạch hay chương trình hành động nào hầu đáp ứng những thách đố mà thời đại đặt ra cho Giáo Hội. Trong bài giảng đầu tiên trong ngày lễ lên ngôi Giáo hoàng của Ngài, Đức Bênêđictô đã tuyên bố không đưa ra chương trình hành động nào trong triều đại của Ngài, nhưng như là mục tử, Ngài sẽ thực hiện chương trình của Thiên Chúa chứ không phải của Ngài. Chính vì thế, người ta lại càng trông đợi bức thông điệp đầu tiên này, nhất là khi đọc lại những giáo huấn rất phong phú trước đó của Ngài. Thực vậy, trước khi được bầu làm Giáo Hoàng kế vị Đức Gioan Phaolô II, Đức Bênêđictô XVI đã là một giáo sư thần học nổi danh (1959-1977), và đã là vị Tổng Giám Mục của Giáo phận Munich, một tổng giáo phận miền nam nước Đức, vùng Bavaria đông đảo và sùng đạo với hơn hai triệu giáo dân, 1000 linh mục địa phận và 500 linh mục dòng, 500 tu sĩ nam và gần 6000 nữ tu (1977-1981) ; và sau cùng, theo lời triệu mời của Đức Gioan Phaolô II, ngài đã là vị lãnh đạo một Bộ quan trọng trong giáo triều Rôma là Thánh Bộ Giáo Lý và Đức Tin với nhiệm vụ là gìn giữ sự tinh tuyền của Đức Tin Kitô giáo (11.1981-5.2005). Qua quãng đời khá dài trong những vị trí quan trọng và nổi bật như thế, thế giới Kitô giáo nói chung đã nhận biết những tư tưởng chính yếu của Ngài về phương diện thần học tín lý, luân lý và phụng vụ, cách riêng, những nhận định của ngài về nhiều vấn đề nóng bỏng của thế giới, của Giáo Hội vào triều đại Đức Gioan Phaolô II. Các tác phẩm đã được xuất bản của ngài bao gồm khoảng 80 cuốn sách, hơn 300 bài viết và 25 bài trả lời phỏng vấn,[1][1] qua đó Ngài đã có những nhận định rất sâu sắc về tình hình Giáo Hội, về những bước đi của Công Đồng, về việc áp dụng giáo huấn Công Đồng Vaticanô II, về những trào lưu tư tưởng của thế giới ngày nay, bao gồm những trào lưu thuận lợi hay không thuận lợi cho sứ điệp Tin Mừng.

Quả vậy, qua suốt 46 năm trong cương vị là một giáo sư, một nhà thần học và một vị chủ chăn, Đức Ratzinger đã sống sâu đậm cuộc sống Giáo Hội đầy biến chuyển trong hậu bán thế kỷ 20 bước sang thế kỷ 21. Đây cũng là quãng thời gian Giáo Hội sống biến cố Công Đồng Vaticanô II với đầy những hy vọng vì những canh tân đổi mới, song cũng là thời gian đầy sóng gió cho Giáo Hội, cách riêng Giáo Hội phương Tây[2][2] mà Đức Ratzinger đã phục vụ dưới thời giáo triều Đức Gioan Phaolô II.

Theo Đức Ratzinger, Đức Tin Kitô giáo là kho tàng được trao phó cho Giáo Hội và được sống trong lòng Giáo Hội Công Giáo duy nhất. Và Giáo Hội duy nhất của Đức Kitô này hiện diện qua dòng lịch sử, xuyên vượt qua những trào lưu tư tưởng và văn hoá của thời đại mà Mạc Khải được đón nhận trong Đức Tin là nguồn ánh sáng soi dẫn, chỉ đạo cũng như sửa chữa.[3][3] Cũng theo Đức Ratzinger Giáo Hội này phải luôn đối thoại với thế giới văn hoá để tìm ra sự thật,[4][4] một sự thật đem lại niềm vui sống cho con người,[5][5] vạch ra con đường phục vụ con người trọn vẹn hơn trong ơn gọi làm người của họ ; nhưng đồng thời, Giáo Hội cũng sẵn sàng đương đầu và sửa sai những nền văn hoá hàm chứa hoặc quảng bá những giá trị đối chọi Tin Mừng. Với sự đóng góp mang đậm dấu vết riêng của ngài, Đức Joseph Ratzinger quả là một vị chủ chăn cũng như là một nhà tư tưởng lỗi lạc đến nỗi các học giả đã đặt tên cho ngài là nhà thần học của nền văn hoá đương thời.[6][6]

Dưạ trên bối cảnh tư tưởng của Đức Ratzinger được trình bày qua các bút tích của ngài, bài viết muốn đào sâu thông điệp đầu tiên của Đức Bênêđictô XVI trong góc cạnh thông điệp này là lời giải đáp cho một số vấn nạn quan trọng của con người đương thời. Bài viết sẽ khởi đầu trong Phần Một với lối sống và suy nghĩ và những vấn nạn mà con nguời đặt ra cho Giáo Hội ngày hôm nay (I). Phần Hai của bài viết này sẽ trình bày câu trả lời cho các vấn nạn ấy dựa vào thông điệp Deus Caritas Est (II). Chắc chắn bài viết không có tham vọng trình bày tất cả mọi vấn nạn của con người cũng như mọi giải đáp mà thông điệp đã đưa ra. Bài viết chỉ nêu ra một số những vấn nạn mà Đức Ratzinger trước khi làm giáo hoàng đã ưu tư và thường xuyên đề cập đến, để rồi trong năm thứ nhất của triều đại ngài, ngài đã muốn soi sáng bằng ánh sáng Tin Mừng và đưa ra câu trả lời đáp ứng những vấn nạn ấy.

I. CÁC VẤN NẠN :

Trong phần này, chúng ta sẽ tìm hiểu đôi chút về bối cảnh tư duy của con người hiện đại. Chúng ta phải nói ngay rằng trong cương vị là chủ chăn của toàn thể Giáo Hội Công Giáo, bối cảnh mà Đức Bênêđictô nhắm đến hẳn phải là bối cảnh của thế giới toàn cầu. Tuy nhiên, chúng ta sẽ khởi đầu với trào lưu tư tưởng đã khởi sự từ phương Tây gọi là thời Tân Đại (Modernism) kéo dài từ thế kỷ 16 đến đầu thế kỷ 20 (1) và trong thời đại đó, một nhà tư tưởng mà Đức Bênêđictô nêu đích danh là Friedrich Nietszche (2). Những lối suy nghĩ như thế đã tiếp tục trong thời hiện đại của chúng ta và đưọc mệnh danh là thời Hậu Tân Đại [Post-modernism] (3).

 

1.    Những vấn nạn của Tân Thời Đại.

       [Modernism]

Trào lưu thời đại mới đã khởi sự từ thế kỷ 16 tại Phương Tây với những nhà tư tưởng như Descartes và Kant. Họ cho rằng chân lý phải được xem xét theo tiêu chuẩn của lý trí con người mà thôi, chứ không thể theo tiêu chuẩn của một mạc khải nào hết, nhất là mạc khải được coi là nằm trong thẩm quyền giải thích của Giáo Hội. Nhằm thoát khỏi sự bảo hộ của Giáo Hội trong suốt thời kỳ trước đó là thời Trung Cổ, các nhà tư tưởng lúc bấy giờ tự gọi mình là nhóm Tân Thời (Modern), và cổ võ một lối tư duy và hành động khác với những gì mà các nhà tư tưởng Trung Cổ. Họ quả quyết rất mạnh mẽ rằng trong mọi con người đều có một lý trí phổ quát và lý trí này là quan toà để xem xét và đánh giá mọi sự, nhất là xem xét những quả quyết về chân lý. Nguyên lý đệ nhất của họ chính là : “hãy can đảm sử dụng lý trí của bạn” [và được hiểu là ‘hãy chỉ dùng lý trí’ mà thôi].

Phương pháp suy nghĩ và hành động theo phán quyết của lý trí đó độc lập với phương pháp suy nghĩ và hành động khởi sự từ cái nhìn đức tin sống động của thời Trung Cổ, thường quy hết mọi sự về Thiên Chúa. Phương pháp suy nghĩ và hành động tân thời đó đã làm nảy sinh ra phương pháp làm việc khoa học kỹ thuật dựa trên việc tìm kiếm, khám phá ra những năng lực thiên nhiên và năng lực nơi con người độc lập với những quả quyết của Thánh Kinh được hiểu theo não trạng Trung Cổ thời bấy giờ. Từ đấy, các khoa học kỹ thuật tại Phương Tây được phát triển một cách nhanh chóng và não trạng khoa học kỹ thuật này sớm thống trị toàn thể nhân loại khi nhân loại bước sang thế kỷ thứ XX.

Phải nói rằng trào lưu Tân thời như thế [đối lại với thời Trung Cổ] đã đem lại rất nhiều ích lợi không thể chối cãi được cho con người. Số sinh tăng nhanh và số tử giảm đi rất nhiều. Nhiều căn bệnh chết người dần dần có thể được kiểm soát và khai trừ. Trên nguyên tắc, con người đòi hỏi được đối xử bình đẳng và công bình. Nói chung, sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật giúp gia tăng của cải vật chất và xã hội được phát triển về nhiều mặt, và cách riêng, giáo dục là phương thế tối cần thiết và không chỉ dành cho một số giới quý tộc giầu có mà là quyền lợi của mọi con người.

Nhưng cùng lúc đó, sự phát triển của thời đại gọi là Khoa học kỹ thuật như thế lại đưa đến rất nhiều hậu quả tai hại. Nông nghiệp và y tế được phát triển nhưng kỹ thuật quân sự cũng phát triển theo. Khả năng hủy diệt của con người được gia tăng một cách khủng khiếp và hai trận thế chiến là kết quả hiển nhiên cho lối nhìn thống trị bởi lý trí duy khoa học thực nghiệm như thế, bởi đó là một thứ lý trí không được đi kèm theo bởi một tiêu chuẩn đạo đức, hay tôn giáo, và là một thứ lý trí què quặt bởi đã nhìn rất phiến diện về thực thể nhân linh. Cũng thế, trại tập trung thảm sát người Do Thái và các cuộc thảm sát diệt chủng, hoặc những án quyết loại trù những người không đồng lòng bước vào kế hoạch chung của một nhóm cầm quyền cũng là những dấu chứng cho thấy mặt trái của lối suy tư duy lý trí và duy tổ chức đó. Bên cạnh đó, những vấn đề của môi trường cũng là mặt tối của thời khoa học kỹ thuật hiện nay và đã lên tới mức báo động báo động. Tiếp nữa là sự can thiệp vào ADN, các kỹ thuật sinh học kéo theo những hậu quả mà cho đến chưa ai lường trước được. Cách nhìn của con người bị giản lược vào lối nhìn duy thực nghiệm, coi con người chỉ là một kết quả của tự nhiên mà khoa học kỹ thuật có thể can thiệp và lèo lái.

Ngày nay, hiện cũng còn rất nhiều con người còn đang sùng bái lối tư duy kỹ thuật khoa học như thế, cách riêng các dân tộc ở thế giới đang phát triển. Song đã có rất nhiều nhà văn hoá đã vạch ra các mặt trái của lối suy nghĩ và hành động theo thực nghiệm như thế.[7][7] Trong một bài viết, Đức Ratzinger đã lưu ý tới loại hiện tượng toàn cầu hoá theo nghĩa lối nhìn duy khoa học kỹ thuật này hầu như thống trị tâm tưởng của con người thời đại và đả làm nghèo nàn đi đời sống nhân văn và tâm linh của con người.

Từ tư duy và hành động theo lối khoa học kỹ thuật rất giản lược đó mà hiện tượng bài tôn giáo nói chung và bài Kitô giáo nói riêng ở Phương Tây đã lan tràn nhanh chóng để rồi trở thành hiện tượng vô thần phổ biến dưới nhiều hình thức khác nhau. Người viết tin rằng thông điệp Deus Caritas Est đã được đưa ra trong bối cảnh con người xa lạc tôn giáo vốn là môi sinh để con người tiếp cận và hưởng nhận Tình Yêu Thiên Chúa. Nhiều người công khai gạt bỏ tôn giáo khỏi cuộc sống, và như thế, đã từ bỏ Tình yêu của Thiên Chúa, kéo theo hậu quả là con người đã khước từ chính con người mình và khước từ tha nhân qua những hình thái khác nhau.

2. Friedrich Nietszche (1844-1900)

Nếu như các nhà tư tưởng duy lý, duy khoa học và duy thực nghiệm phát xuất từ thế kỷ thứ XVI ở phương Tây nói trên đã gạt bỏ đời sống tôn giáo con người nhân danh phán quyết của tư duy lý trí, thì Friedrich Nietszche, một triết gia cũng được coi là ông tổ của chủ nghĩa vô thần trong thời hiện đại, nhà tư tưởng mà thông điệp đã đích danh nêu tên, lại phê phán tôn giáo từ một góc cạnh khác. Một bên, Nietszche cũng phê phán lối tư duy trừu tượng của khoa học kỹ thuật, và chê trách đó là lối tư duy duy niệm. Ông chủ trương một lối tư duy nhấn mạnh sức năng động của sự sống, mà theo ông, đó là một sự sống có sức sáng tạo liên tục và vô giới hạn. Ông cho rằng chính sức mạnh sáng tạo này nội tại nơi con người và chính con người mới là nguồn gốc sinh ra các giá trị. Năng lực phát sinh ra các giá trị liên tục siêu vượt chính mình qua việc phá hủy các hình thức và các giá trị mà nó đã được diễn tả trong quá khứ và liên tục tạo nên những hình thức và những giá trị mới. Trong suy nghĩ của ông, con người được nhìn nhận là môi trường của sự sống cao trổi nhất và đầy sáng tạo nhất. [8][8]

Chính trong cái nhìn đề cao con người lên đến tột đỉnh đó mà Nietszche đã đánh giá lại truyền thống các giá trị mà Kitô giáo đã từng truyền bá. Hơn thế nữa, ông còn đảo ngược lại những quả quyết về các giá trị mà Kitô giáo thường cổ võ. Theo ông, các giá trị luân lý không phải do Đấng Tạo Hoá nào khắc ghi nơi bản tính con người mà con người phải làm triển nở khi sinh hoạt trong kiếp nhân sinh này. Dựa vào chủ trương con người nguồn gốc giá trị luân lý, ông chia nhân loại ra làm hai loại người : loại người chủ nhân và loại người nô lệ. Luân lý cũng được chia làm hai tùy theo loại người : luân lý của loại người chủ nhân nhấn mạnh tới những gì là hùng cường, mạnh mẽ, tự tin, còn luân lý của đám dân nô lệ, thường dân là loại luân lý của những kẻ nhu nhược, chỉ luôn muốn nhấn mạnh tới những nhân đức của kẻ nô lệ như là đức nhẫn nại, khiêm tốn, hiền từ, thương yêu, tha thứ, … Và tùy theo việc mình thuộc về loại nào mà con người sẽ đánh giá các giá trị theo đó. Trong khi những kẻ tiện dân coi những giá trị, đức tính của loại chủ nhân là đáng ghê sợ, đáng kinh khiếp, thì loại người chủ nhân lại coi những đức tính của hàng tiện dân thật đáng khinh bỉ, là xấu xa.

Chính trong cái nhìn khinh khi nền luân lý nô lệ như Nietszche hiểu mà Nietszche miệt thị các giá trị tôn giáo. Ông chế diễu những Kitô hữu thời đại ông đã là những kẻ thụ động, những người mà ông gọi là “bệnh hoạn, những người bất toại” với một lối sống thiếu máu, thiếu sinh khí, bi quan.[9][9] Theo ông, đời sống này chứa đựng tất cả những gì là giá trị nhất, những giá trị khác chỉ có được tùy theo việc chúng có cổ võ đời sống này mà thôi. Tuy nhiên, chính bản thân mỗi người là cội nguồn các giá trị ; các giá trị là do chính bản thân ta đặt ra chứ không phải do một thần thánh nào hình thành nên. Hẳn nhiên, tôn giáo mà ông tấn công nhiều hơn hết chính là Kitô giáo mà ông coi là điển hình của nền luân lý của những kẻ nô lệ. Những nhân đức như từ bi, nhân nhượng, khiêm tốn chẳng qua chỉ là những thái độ của kẻ nhu nhược và bất lực nhưng lại tự kiêu, muốn kẻ khác coi trọng cái mà có lẽ không bao giờ người đời coi trọng được. Chính trong lối suy nghĩ đó mà ta hiểu được Đức Bênêđictô XVI đã nêu đích danh Friedrich Nietzsche như là kẻ đặt lên vấn nạn mà thông điệp Tình Yêu Kitô giáo muốn trả lời. Vấn nạn đó được diễn tả như sau : “Kitô giáo đã làm hư hỏng tình yêu, đã đầu độc tình yêu vốn dĩ thuộc con người” (n.5)

Ở đây, từng luận điểm Nietzsche đã đưa ra đều có thể trở thành đề tài cho chúng ta tìm hiểu và tranh luận. Nhưng thông điệp đã không đi vào từng điểm, nhưng thông điệp chỉ nhắc đến như là bối cảnh để tiếp tục khai phá triền tư tưởng riêng của thông điệp. Ở đây, chúng ta cũng không tranh luận về từng điểm này, nhưng chúng ta cũng phải lưu ý đến đến ảnh hưởng rất lâu dài mà tư tưởng Nietzsche đã để lại, không những cho thế giới Kitô giáo phương Tây mà còn cho cả các vùng văn hoá khác của thế giới, trong đó có cả những người trẻ đang tiếp xúc với ảnh hưởng của phương Tây. Vấn đề then chốt ở đây không phải là Nietszche đã nhìn đúng hay sai về từng một luận điểm nào. Trong lịch sử loan báo Tin Mừng, Kitô giáo thường xuyên bị tấn công nhiều mặt. Các vị anh hùng tử đạo cũng như tác phẩm của các vị hộ giáo là những bằng chứng rõ rệt cho điều đó. Vấn đề mà Nietzsche nêu ra ở đây mà chúng ta cần lưu ý là ông đã đem vào một lăng kính mới mẻ rất tinh quái. Đó là tinh thần hoài nghi về những gì căn bản nhất. Và đó chính là đầu mối của nền văn hoá, nếu không dám nói là của toàn cầu hiện nay, thì ít ra cũng rất mạnh mẽ trong những nền văn hoá đang chịu ảnh hưởng của phương Tây. Cách nhìn đó có thể được coi như là một loài vi khuẩn đã xâm nhập vào trong cơ thể và nằm tại chỗ để từ đó dần dần tàn phá toàn bộ hoạt động cơ thể. Thực vậy, giờ đây, tất cả những gì được gọi là “giá trị” đều có thể bị hoài nghi. Tất cả những gì mà con người coi là chắc chắn, là nền tảng, là truyền thống đều bị giải thích theo lăng kính hoài nghi này : hoặc anh thuộc vào tầng lớp chủ nhân ông, hoặc anh thuộc về tầng lớp người nô lệ. Chính vì thế, cùng với các nhà tư tưởng khác như Freud trong lãnh vực tâm lý, Friedrich Nietszche còn được coi là một trong những bậc thầy về hoài nghi thuyết, mở đường cho cả một tư duy hiện nay khá thấm nhập vào trong giới trẻ của thời đại mà người ta gọi là lối tư duy hậu tân thời mà chúng ta sẽ tìm hiểu sau đây.

 

3.   Trào lưu Hậu Tân Thời

      (Post-Modernism)[10][10]

Trào lưu hậu tân thời là cả một phong trào tư duy thời mới với một lực lượng các nhà tư tưởng cổ võ trong các lãnh vực khác nhau, từ lãnh vực khoa học nhân văn đến nghệ thuật, văn hoá và triết lý. Chúng ta không đi sâu và nhưng chỉ tóm tắt một số lập trường của trào lưu này như sau :

* Trào lưu này phản đối lại lối tư duy quá thiên về lý trí với những định luật cứng nhắc. Ngược lại với chủ trương của những người tôn sùng khoa học, chủ nghĩa hậu tân thời vạch rõ tính chất “tin tưởng”, một thứ “niềm tin” vào những quả quyết khá võ đoán của các nhà duy thực nghiệm về chân lý. Họ cho rằng không thể có cái gọi là lý trí phổ quát, một lý trí có khả năng xác nhận cái tuyệt đối và phổ quát ;

* Trào lưu này cũng phủ nhận việc cá nhân là một hữu thể nhân linh có khả năng đứng tách mình ra khỏi môi trường điều kiện hoá mình, theo đó, con người không có khả năng siêu vượt vị thế của mình trong lịch sử, giai cấp và nền văn hoá của mình.

* Trào lưu cũng quả quyết rằng không hề có bất kỳ một nguyên lý phổ quát hay đường lối hành động phổ quát nào thích hợp cho hết mọi người ; tất cả chỉ là những ưa chuộng mang tính cách chủ quan, chỉ phù hợp cho lợi ích của một số người ở một số nơi mà thôi.

Với 3 phủ nhận thiết yếu trên, chúng ta không khó lắm để nhận ra những ảnh hưởng của trào lưu này trên nhiều lãnh vực khác nhau :

a. Trào lưu hậu hiện đại không còn tin tưởng vào những trình thuật, những câu truyện, những lối lý giải siêu thời gian, không gian, những lý thuyết mang tính cách phổ quát nữa vì con người không có khả năng siêu vượt không gian và thời gian để có thể có cái nhìn và trình bày cái nhìn phổ quát được. Con người không có vị thế bất định nào đứng ngoài thời gian và không gian để xác nhận một chân lý có giá trị cho mọi nơi mọi thời. Bất kỳ câu truyện gì, lý thuyết gì đều mang dấu vết của cá nhân của người đề xướng. Người ta sẽ luôn vặn hỏi rằng : câu truyện đó là của ai, ai có thẩm quyền kể câu truyện ấy ? Câu truyện ấy có giá trị hay không ? Giá trị đó dựa vào tiêu chuẩn của ai ? Và tại sao người đó lại kể câu truyện ấy, và với “ý đồ” gì ? Họ nhắm lợi lộc gì cho họ ? Rồi người ta sẽ xét tỉ mỉ môi trường thể lý, văn hoá đã điều kiện hoá người trình bày học thuyết hay câu truyện lớn lao đó như thế nào.

b. Nếu như không còn có câu truyện lớn lao vượt không gian thời gian thì cũng chẳng còn cái gọi là lý trí phổ quát nữa. Toàn bộ lý trí hay tư duy và hành động gọi là đúng đắn của con người đều được hình thành trong một bối cảnh, một hoàn cảnh đặc thù nhất định. Các định chế, các nghi thức, các truyền thống cũng thế, chỉ là định chế của một số nhóm người nào đó, của một thời đại nào đó, của xã hội nào đó và không nhất thiết là có giá trị cho những thời đại khác, xã hội khác. Cái gọi là đúng, là hợp lý, chỉ là đúng trong giai đoạn này, phù hợp với hoàn cảnh xã hội này mà thôi, chứ chưa chắc là đã đúng, đã hợp hay sẽ đúng, sẽ hợp trong các giai đoạn khác.

c. Trào lưu này cũng bài bác thẳng thừng lối tư duy duy khoa học kỹ thuật. Cái gọi là khoa học kỹ thuật cũng chỉ là một giai đoạn tư duy của con người, cụ thể con người của phương Tây thiên về việc tác động, ảnh hưởng trên môi trường. Lối tư duy và hành động ấy chưa chắc là phù hợp cho mọi người trên hành tinh này. Cái gọi là chân lý không phải là chân lý về thực tại như các nhà khoa học quả quyết : “Sự việc là như thế đấy !” Không, sự việc chỉ là như thế “theo cái nhìn của tôi” mà thôi! Các quả quyết tôn giáo cũng bị sắp vào lãnh vực chủ quan và riêng tư cá nhân như thế. Những chân lý tôn giáo quả quyết đều bị coi là chân lý cho người có niềm tin ấy mà thôi.

d. Hơn thế nữa, dưới ảnh hưởng của Nietzsche, người ta còn coi các quả quyết về chân lý phổ quát chỉ là mặt nạ che dấu những ý thức hệ của người quả quyết chúng. Ý thức hệ nằm thâm sâu trong lòng con người, như Nietszche trình bày, là một lối ý thức hệ chạy theo quyền lực. Ai nấy đều theo đuổi những ý thức hệ khác nhau để mưu chiếm lấy quyền lực hòng thống trị người khác.

e. Mất niềm tin vào cái phổ quát, lối tư duy hậu tân thời chủ trương không hề có một thứ lịch sử phổ quát nào. Họ trưng dẫn những cái nhìn lịch sử vĩ đại của Kant, của Hegel, của các nhà duy xã hội thế kỷ 19 đều chỉ là những tưởng tượng nực cười. Các lý thuyết về phát triển xã hội cũng chỉ là một phiên bản mới của“huyền thoại”, túc là sản phẩm do con người tưởng tượng ra mà thôi. Lịch sử cho thấy rằng nhân loại đã không hề đi theo một đường thẳng tiến bộ và đồng nhất như thế. Cái gọi là lịch sử chỉ là câu truyện được kể lại bởi những con người cụ thể, bị giới hạn và bị ảnh hưởng cụ thể của môi trường, của giai cấp và lợi ích cục bộ riêng của mình. Họ bộc lộ chính bản thân hơn là diễn tiến của thực tại.

f. Trong cái nhìn này, con người hoàn toàn bị phân hoá và không còn là một trung tâm phát xuất hành động có ý thức và tự do. Con người là một cá nhân bị cố định trong lịch sử văn hoá, ngôn ngữ đặc thù của mình với một thân xác đầy giới hạn. Tất cả những nhận thức của cá nhân đều đậm nét giới hạn trong ngôn ngữ người ấy sử dụng. Mà ngôn ngữ là cái gì hoàn toàn do con người tùy nghi ân định, không có giá trị muôn đời muôn thưở. Ngoài ra, ngôn ngữ còn là công cụ của các quyền lực tranh giành ảnh hưởng nhau. Chúng ta không thể nào xác định được chân lý qua ngôn ngữ của con người. Kinh điển của các tôn giáo đều chỉ là những kinh nghiệm nhân bản được diễn tả ra mà thôi, chứ không hề có điều gọi là Lời Mạc khải của thần linh. Quyền giáo huấn chỉ là một thứ “ưu tiên” trong giải thích mà thôi.

Về điểm này, chúng ta có thể nhìn thấy rõ hơn qua lối trình bày của một triết gia của thời đại là Georg Hans Gadamer được coi là người đã diễn tả rõ rệt nhất tính giới hạn, đặc thù của ngôn ngữ con người sử dụng. Ông đã xây dựng những phân tích về ngôn ngữ như thế thành một triết lý về con người và tri thức của con người như sau :[11][11]

Con người là một hữu thể sống trong xã hội. Xã hội là tập họp của những con người và mỗi xã hội thừa hưởng một nền văn hoá được lưu chuyển qua ngôn ngữ, phong tục, tập quán. Khi một người nhận thức bất kỳ điều gì, thì nhận thức của người ấy đều được “lọc” qua lăng kính của nền văn hoá người ấy, trong đó những giá trị họ ao ước, trân trọng là lăng kính để người ấy tiếp thu những kinh nghiệm và nhận thức mới. Nói khác đi, con người sống trong những “truyền thống” mà mình thừa hưởng từ cha ông, từ dân tộc, từ đất nước. Không ai lại “thoát” ra khỏi những điều kiện mà môi trường văn hoá mình thừa hưởng và vì thế Không có một “nhận thức” (bao gồm cả những nhận định, những đánh giá) nào được coi là “trung lập”. Cái gọi là nhận định khách quan, chân lý khách quan, giá trị khách quan, tuyệt đối, chỉ là những quả quyết võ đoán ; trong khi chính người quả quyết lại không nhận thấy là mình đang “chìm ngập” trong dòng “truyền thống” văn hoá ấy. Nếu nói một cách tiêu cực, thì không ai lại không có “tiên kiến” hay “thành kiến” về một đối tượng nào đó. Nói một cách tích cực, không ai lại không thừa hưởng, hoặc lại không sống trong một “truyền thống” sống động.

Truyền thống này, hoặc những truyền thống này sẽ “sống” hay “lụi tàn” bao lâu còn có những con người tiếp tục hay không tiếp tục chúng. Việc một truyền thống còn tiếp tục sống động là khi truyền thống đó – được Gadamer gọi là “chân trời” nhận thức – có được tiếp tục hội nhập vào cuộc sống hiện tại hay không. Và mỗi con người trong thời hiện tại của mình lại đem những vấn đề mới mẻ mà mình bắt gặp để hội nhập vào trong chân trời nhận thức của truyền thống. Nói tắt, ở đây, khi một con người với những vấn đề mới mẻ của cuộc sống đầy thúc bách, sẽ tìm cách có câu trả lời khi đem chân trời ấy “hoà trộn” với chân trời nhận thức của truyền thống và rất có thể sẽ làm xuất hiện những “chân trời” nhận thức mới.

Cách giải thích của Gadamer chứa đựng những điểm tích cực cũng như có những điều đáng phải lưu ý xét về mặt tôn giáo, cách riêng với Kitô giáo của chúng ta. Xét theo một mặt, Gadamer đã nói rõ tầm quan trọng của “truyền thống”, đánh tan huyền thoại chân lý thực nghiệm khách quan mà trào lưu duy khoa học quả quyết hàng bốn thế kỷ vừa qua. Ông đã phục hồi vị trí của “truyền thống” trong đời sống cộng đồng văn hoá. Và nếu Giáo Hội là một cộng đồng của những người Kitô hữu, thì việc Giáo Hội có “truyền thống” riêng của mình cũng là một điều dễ hiểu. Thứ đến, để truyền thống “được sống động” thì buộc phải có việc liên tục thích ứng với bối cảnh của hiện tại. Nói cách khác, cần phải có việc “giải thích” những truyền thống trong một bối cảnh khác, như thể các truyền thống của Giáo Hội đã hội nhập được vào trong những nền văn hoá Hy-La, Ái Nhĩ Lan hay Đức, các dân tộc Slave, và ngày nay, đang tìm cách hội nhập vào các nền văn hoá Á Châu, ...

Tuy nhiên, mặt khác, lối suy nghĩ của Gadamer khi nhấn mạnh tới việc “hoà trộn chân trời nhận thức” đã biến tất cả những nhận định của con người trở thành tương đối. Không có gì là tuyệt đối, mọi sự chỉ là “giải thích” của con người mà thôi. Một chủ trương như thế dễ đưa tới lập trường cho rằng không có tiêu chuẩn hay giá trị nào ở bên ngoài hay vượt lên trên con người hoặc cộng đồng con người, và tất cả chỉ là sự thích hợp hay thuận tiện mà cộng đoàn kinh nghiệm mà thôi. Song thích hợp chỉ là thích hợp với nhóm người này và chưa chắc là đã thích hợp hay thuận tiện cho nhóm người khác.

II. DEUS CARITAS EST

Các chiều hướng suy nghĩ của trào lưu tân thời với chủ trương duy thực nghiệm, duy vật chất, chỉ nhấn mạnh tới lý trí con người hiểu theo nghĩa lý trí giới hạn trong lãnh vực thực nghiệm và chủ trương của Nietszche nhấn mạnh tới ý chí cá nhân tự tạo nên giá trị cho mình mà không đếm xỉa gì đến tha nhân và chủ trương xuất phát từ đó là chủ trương hậu tân thời vừa đối nghịch vừa tiếp tục hai trào lưu trên đều đặt Giáo Hội đứng trước những thách đố thật lớn lao cho Tin Mừng, và đòi hỏi phải có những giải đáp cho con người thời đại. Chúng ta trong bài viết này không có tham vọng lớn để đưa ra những câu giải đáp, nhưng dựa vào thông điệp Deus Caritas Est, chúng ta muốn đối thoại với những trào lưu đó như sau :

 

1.   Con người toàn vẹn :

      Tâm điểm phục vụ của Giáo Hội

Vấn nạn đặt ra từ thế kỷ 16 cho đến nay là sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật đã tạo nên một nền văn hoá toàn cầu kỹ thuật và mê hoặc con người vào huyền thoại tiến bộ ấy. Thế nhưng tại sao những tiến bộ đem lại nhiều tiện nghi cho con người như thế lại không hề làm tăng thêm hạnh phúc cho con người ? Giáo Hội chỉ ra rằng bởi vì nền văn hoá đó đã phiến diện khi chỉ nhấn mạnh đến một khía cạnh của lý trí là lý tính thực dụng của con người chứ không phải nhìn đến con người trong toàn diện tính của nhân tính. Con người được cấu thành không chỉ với thân xác mà còn với tâm, với hồn. Và mỗi chiều kích của con người đều cần được phát triển một cách toàn diện. Các kiến thức khoa học kỹ thuật là cần thiết, song những kiến thức đó chỉ gia tăng kỹ năng của con người để biết đến cách thức giải quyết chứ không làm cho con người hiểu thấu hơn lý do tại sao, cũng như mục đích của những hoạt động khoa học kỹ thuật của con người. (Nền văn hoá hiện nay được tiếp thu trong học đường hầu hết mang tính cách “giải quyết vấn đề” [problem solving] hơn là hiểu thấu nguyên nguồn và cùng đích của chúng.

Tri thức khoa học kỹ thuật đó buộc phải bổ sung một chiều kích thiết yếu khác, tức là chiều kích của cái tâm con người mà thông điệp Deus Caritas Est muốn lấy làm chủ đề để tìm hiểu sâu xa : con người còn cần được yêu và được trao ban tình yêu. Và hẳn đó là lý do tại sao thông điệp đầu tiên của Đức Bênêđictô lại muốn đào sâu đề tài rất căn bản, được biết đến rất nhiều song cũng lại bị lãng quên hoặc hiểu một cách rất sai lạc trong đời sống thực hành. Một lý tính khoa học chỉ biết tính toán hơn thiệt sẽ làm cho con người thành một hữu thể máy móc. Nó đưa ra những giải pháp thuận tiện tức thời mà bỏ quên cái cốt tủy làm cho con người hạnh phúc là tình yêu. Cái lý tính duy niệm phổ quát mà trào lưu tư tưởng từ thế kỷ 16 cổ võ là cái lý tính khiến con người phân biệt những gì thật phức tạp nhưng lại không làm cho con người biết nối kết những gì rất là đơn giản. Người này phân ra người kia, dân tộc này phân ra dân tộc nọ, và thế là chiến tranh đã diễn ra mà ai cũng quả quyết là mình có chính nghĩa, khi chính nghĩa đó được hiểu là quyền lợi riêng biệt của từng người và của từng quốc gia. Một lý tính như thế không có mục tiêu tối hậu và khi con người nghĩ rằnh mình đang thống trị thiên nhiên thì chính lúc đó lại đang bị nô lệ cho những thành phẩm mà con người đã tạo ra. Một thứ thờ lạy ngẫu thần của thời đại mới đã xâm nhập vào lôi suy nghĩ và lối sống của con người.

Một lý tính như thế cũng khiến con người hướng tới những thành quả tức thời, một chủ nghĩa thực dụng đang xâm chiếm con người trên cả hành tinh này. Lý tính đáng lẽ ra phải hướng tới chân lý thì lại chỉ hướng tới thành quả, thành công được lượng hoá qua số lợi nhuận mà con người đắc thủ được. Tiêu chuẩn của tri thức con người không còn là chân lý mà là sự hữu hiệu. Các chương trình, các kế hoạch cũng đều được vạch ra để đạt tới những hiệu quả sờ mó thấy được trong khi những chiều kích khác của tâm hồn con người bị quên lãng. Chính Đức Bênêđictô khi còn là Bộ trưởng thánh bộ Đức Tin đã viết :

Có thể nói được rằng lối suy nghĩ thuần túy duy công dụng này đã kéo theo một tình trạng bất trật tự về ý thức luân lý rất khác với những nền luân lý từ trước tới nay đã hiện diện, vì lẽ lối suy nghĩ này chỉ coi là hợp với lý trí những gì có thể minh chứng bằng thí nghiệm. Trong khi luân lý laị thuộc về một bình diện hoàn toàn khác, luân lý không còn là một phạm trù riêng của chính nó và vì thế, cần phải xác định lại một cách khác, bởi lẽ luân lý là cái gì luôn luôn rất thiết yếu cho cuộc sống con người.

Trong một thế giới dựa trên tính toán như thế, thì chính việc tính toán những hậu quả mới quyết định điều gì được hay không được coi là đạo đức. Phạm trù sự thiện đã biết mất. Không có gì là xấu hay tốt tự nó, mọi sự đều lệ thuộc vào những hậu quả mà một hành động cho phép con người tiên liệu.[12][12]

Trong một thế giới cổ võ nhân sinh quan như thế, thì con người trở thành sản phẩm của chính con người. Nhân danh sự tìm tòi của lý trí, người ta đã đi sâu những cấu tố hình thành nên thân xác con người và tìm cách can thiệp vào những cấu tố ấy, như những thí nghiệm về ưu sinh để tìm ra con người thể lý hoàn hảo nhất. Con người không còn là hình ảnh của Thiên Chúa nữa nhưng là hình ảnh của chính mình.[13][13] Thê nhưng, Kitô giáo luôn nhấn mạnh con người là một tổng thể duy nhất xác hồn, có khả năng hiểu biết chân lý khách quan cũng như có năng lực tiếp nhận và cống hiến tình yêu bởi vì con người được tạo dựng nên theo như hình ảnh của Thiên Chúa. Ngài là Đấng Logos và cũng là Đấng đã thông ban tình yêu của ngài cho con người : “Thiên Chúa là Đấng tuyệt đối và là nguồn mạch của mọi loài ; nhưng mặt khác, chủ tể tác tạo hoàn vũ này Logos, Đấng Thượng Trí lại đồng thời là một đấng biết yêu với tất cả đam mê của một tình yêu thực sự.” (s.10).

Con người mà Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh người là một thể thống nhất cả xác - hồn, lý trí - ý chí - cảm tính. Chính vì thế, sứ điệp Thiên Chúa là Tình Yêu chính là lời mời gọi con người hãy suy tư lại về bản chất của mình. Kitô giáo không tách rời con người ra từng mảng, hoặc giản lược con người vào một chiều kích duy nhất nào, kể cả những chủ trương giản lược con người vào lý trí thuần túy hay vào thân xác thuần túy :

“... Con người được dựng nên cả xác lẫn hồn. Con người thật sự là chính mình khi xác hồn được kết hiệp mật thiết... Nếu một người chỉ mong được thanh thoát tinh thần và khước từ thể xác, coi thân xác mình chỉ là của loài động vật mà thôi, thì khi đó cả hồn lẫn xác đều đánh mất đi vị thế của mình. Ngược lại, nếu người ấy khước từ tinh thần và coi phần xác như là thực tại duy nhất, người ấy cũng đánh mất đi sự cao cả của mình.” (s.5)

Đức Bênêđictô XVI hiểu rất rõ hiện trạng của thế giới ngày nay, nhất là một thế giới phương Tây đang bị thống trị bởi trào lưu tục hoá, đề cao sự hưởng thụ khoái lạc của thân xác (văn hoá dục tính tràn ngập khắp phim ảnh, truyền hình, sách báo…).[14][14] Trong Thông Điệp ngài không bàn luận sâu xa về lãnh vực này nhưng chỉ ra cội rễ của tình trạng đó và đưa ra phương thế để cứu chữa : tìm lại ý nghĩa đích thực của tình yêu, kể cả tình yêu trong chiều kích xác thể của nó (eros). Khi con người chỉ nhắm đến khoái lạc xác thịt, con người đã tách niềm vui thú mà Thiên Chúa đã ban cho ra khỏi mục đích của nó là hướng tới sự thành toàn của tình yêu trong hôn nhân và sự thành tựu của tình yêu nơi con cái. Và từ đó, tất cả những thảm cảnh ly dị, ngừa thai, phá thai và kéo theo, từ hậu quả này sang hậu quả khác. Và ngày nay, dường như nhân loại khó có thể dừng lại được sự trượt dốc của mình về mặt luân lý này.[15][15]

2. Con người và luân lý tính

Thách đố của con người, xét về mặt tôn giáo, đó chính là những thách đố đến từ lãnh vực luân lý đạo đức. Nếu như trên kia, trào lưu khoa học kỹ thuật đặt ra thách đố về nỗ lực con người đi tìm chân lý và nỗ lực đó bị giản lược (một cách thật phiến diện) vào chân lý thực nghiệm của khoa học kỹ thuật, và từ đó ảnh hưởng đến đời sống tâm hồn tôn giáo thâm sâu của con người, thì Nietzsche đã nói thật minh bạch điều mà nhiều người ngày nay đang muốn khẳng định : chính con người là nguồn phát sinh ra các giá trị, kể cả các giá trị đạo đức : công bằng, chính trực, khiêm tốn… Như vậy, trong nền luân lý, không còn có giá trị đạo đức nào gọi là khách quan, có tính bó buộc tuyệt đối nữa. Mỗi người có tiêu chuẩn đạo đức riêng của mình, coi như phù hợp riêng với mình, và mọi sự chỉ còn là “hơn kém” mà thôi. Cái tốt cho anh chưa chắc đã tốt cho tôi. Các đức hạnh cần cổ võ chỉ là công bằng và bác ái nói một cách chung chung. Và đó là trào lưu sống mà rất nhiều lần Đức Ratzinger đã ưu tư và trình bày :

Quả đúng là ngày nay một nền luân lý mới đã hiện diện nhấn mạnh đến những khái niệm như là công bằng, hoà bình, bảo tồn thiên nhiên, những khái niệm gợi laị các giá trị luân lý rất thiết yếu và con người rất cần đến. Nhưng nền luân lý này lại là mơ hồ và hầu như là không thể tránh được là rất dễ dàng kết thúc trong lãnh vực chính trị theo đảng phái. Phải chăng đó chỉ là những giá trị mà tôi đòi hỏi những người khác phải làm cho tôi và rất ít khi là bổn phận của bản thân ? Quả thế, chúng ta buộc phải hỏi công bằng thực sự nghĩa là gì ? Ai xác định điều đó, và cái gì phục vụ cho hoà bình thực sự ?

Vào những thập niên 1970, nền luân lý chính trị chỉ chứa đựng những cội rễ đã hư thối, song lại là một nền luân lý hấp dẫn giới trẻ đầy hăng say với lý tưởng. Song đó là một nền luân lý đã đi lệch hướng do bởi nó đã bị tước đi những suy tư chín chắn của lý trí con người, và xét cho cùng, nền luân lý đó đã đặt một mục đích thật duy tưởng chiếm ưu thế trên cả phẩm giá của con người, và ngay cả có thể đi đến chổ miệt thị con người nhân danh những mục tiêu lớn ở bên ngoài con người… Ngay cả đến cốt lõi lời rao giảng của Đức Giêsu là “Nước Thiên Chúa,” đã bị chuyển thành những “giá trị của Nước Trời,” đồng hoá những giá trị này với những giá trị mà giới chính trị trần thế theo đuổi, coi tôn giáo cũng có những mục tiêu như thế. [16][16]

Não trạng duy tương đôí theo nghĩa là mơ hồ về các giá trị đạo đức đó lại được bênh vực như là những quyền thuộc về phẩm giá con người, tức là nhân quyền. Nếu có ai đó lên tiếng bênh vực chủ trương có những giá trị khách quan mà mọi người buộc phải tôn trọng (vd : quyền sống của các thai nhi), thì người ta ồn ào dùng số đông để uy hiếp. Như thế, não trạng đó sớm trở thành một thứ độc tài về cảm thức luân lý.

Đáp lại những thách đố duy tương đối về luân lý như thế, giáo huấn của Giáo Hội nhấn mạnh đến giá trị khách quan của những giá trị luân lý, tuy rằng trách nhiệm chủ thể có thể thay đổi tùy theo trạng huống tâm linh họ thủ đắc hay khước từ những giá trị này. Quả vậy, ngay trong mức độ vui thú xác thịt (eros) của tình yêu, thì con người cũng đã khám phá ra chiều kích vươn lên của tinh thần để đi đến sự kết hợp với tha thể, với cái gì bên ngoài của con người : “Eros chân chính có khuynh hướng “xuất thần” để đi tới Thiên Chúa, dẫn đưa chúng ta vượt qua chính mình” (s.5). Giá trị luân lý cao cả nhất chính là tình yêu, và đó là thứ tình yêu đòi hỏi mình phải ra khỏi chính mình, từ bỏ chính mình và chấp nhận hy sinh nếu cần. Đó chính là biểu hiện của năng động lực của ý chí vươn khỏi con người ích kỷ để đi đến tha thể trong chính những nhu cầu của họ cần ta đáp ứng.

Đây không phải là thứ tình yêu đại đồng trừu tượng, một học thuyết chỉ để nói về nhưng là một thực tại đã diễn ra trong dòng lịch sử : Lịch Sử Thiên Chúa yêu thương và cứu độ con người.

3. Tình yêu trong lịch sử nhân loại

Nếu như trào lưu văn hoá hậu tân thời không muốn chấp nhận bất kỳ một giáo thuyết, một lối lý giải nào mang tầm vóc toàn cầu hay siêu thời gian, Deus Caritas est quả là một lời giải đáp cho thách đố của nền văn hoá như thế. Thực vậy, Deus Caritas est không phải là một bản văn trình bày một luận thuyết, nhưng là trình bày một câu truyện dài đã diễn ra trong quá khứ và vẫn còn đang tiếp tục diễn ra trong hiện tại. Lịch sử này không phải là kết luận của những suy diễn trừu tượng mà hậu tân thời thuyết rất dị ứng cho bằng đó là những biến cố đã từng xẩy ra mà con người làm chứng, chứ không phải suy diễn. Mọi biến cố đều diễn ra trong một không gian và thời gian nhất định nào đó (như thế mới là lịch sử, thế nhưng, câu truyện tình yêu này, đúng hơn, tiến trình tình yêu thể hiện này là diễn ra cho những con người cụ thể với tất cả những thăng trầm trong cuộc sống của họ. Con người phải đối diện với những câu hỏi đích đáng về cuộc sống của mình : Đâu là cội nguồn cuộc sống, và đâu là hướng đích cuộc đời của mình ? Và những vấn nạn gay gắt về sự dữ qua muôn hình trạng của nó. Tất cả những điều này không phải là những câu hỏi lý thuyết mà là những huyền nhiệm va chạm tới từng người và muôn người. Chính vì thế, câu trả lời mà một người tìm ra không chỉ dành cho cá nhân người đó mà còn vang vọng tới cả những người chung quanh, cho tới cả cộng đồng xuyên qua bao thế hệ.

Như thế, trào lưu hậu tân thời có điểm đúng khi lưu ý đến “ý đồ” của những giải đáp cho các vấn đề nhân sinh và những ý thức hệ ẩn tàng đàng sau những câu trả lời đó. Tuy nhiên, cách tiếp cận mà thông điệp Deus Caritas Est mang đến cho những vấn nạn của trào lưu hậu tân thời đó quả là tài tình khi chỉ ra được tính chất thực tại trong lịch sử của câu truyện tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người ; và câu chuyện ấy được con người tiếp tục nối dài trong lịch sử của các thành viên trong Giáo Hội là Dân của Thiên Chúa.

Trào lưu hậu tân thời cũng khá hoài nghi những lời lý giải mang tính cách siêu thời gian vì chúng chất chứa sức nặng của quá khứ, của truyền thống, của lý giải mà cá nhân đem vào trong khi sống các truyền thống ấy. Nhưng trào lưu này cũng nhìn nhận sự đóng góp của từng cá nhân vào trong câu truyện khi những cá nhân ấy mang vào đó cả cuộc sống quá khứ, hiện tại và những ước vọng của tương lai. Chính những đóng góp đó làm cho (câu truyện của) truyền thống mang chở được ý nghĩa vào trong hiện tại và có khi ý nghĩa còn được làm cho phong phú hơn. Đó chính là điều mà Phần thứ hai của Thông Điệp đã làm khi nêu lên những bước áp dụng cụ thể của Giáo Hội sau khi lãnh nhận dấu chứng Tình Yêu của Thiên Chúa và nỗ lực đáp lại. Sự đóng góp của Giáo Hội vào câu truyện Tình Yêu thể hiện trong lịch sử đó là biết bao nhiều hành vi bác ái yêu thương cụ thể, được tổ chức hay không tổ chức qua các tổ chức cứu trợ của các Kitô hữu xuyên qua bao thời đại. Trong mỗi một thời đại, mỗi một vị thánh, mỗi người Kitô hữu, mỗi cộng đoàn Giáo Hội địa phương hay Giáo Hội toàn cầu, khi thể hiện hành vi bác ái như là sự đáp trả Tình thương của Thiên Chúa mà mình tiếp nhận, chính là một “lời chú giải” cho câu truyện tình yêu mà phần thứ I đã nhắc lại. Như thông điệp nhắc đến, các vị thánh, các Kitô hữu trong bổn phận chuyên môn của mình ở trần thế, chính là những nhà “chú giải” của câu truyện này ngõ hầu câu truyện ấy không còn là câu truyện kể qua chứng từ của người xưa mà là những biến cố sống động của ngày hôm nay.

Cũng thế, những con người thời nay khá hoài nghi về những “ý đồ” của bất kỳ câu truyện nào trình bày cho họ. Những câu truyện trình bày cho họ bị hoài nghi là mang chở một kế hoạch được ý muốn củng cố quyền lực và quyền lợi của người trình bày. Câu truyện tình yêu diễn ra trong lịch sử Thiên Chúa yêu thương nhân loại nếu không biết thuận lại một cách đúng đắn thì cũng bị hiểu sai lạc như thế. Khi nêu đích danh Nietzsche, Đức Bênêđictô muốn qua ông lên tiếng trả lời cho tất cả những ai hiểu sai lạc về sứ điệp Kitô giáo, cũng như qua ông, cho tất cả những ai chống đối Kitô giáo và chống đối Thượng Đế, hoặc nhân danh Thượng đế chống đối con người (s.2). Trong thông điệp đầu tiên này, Ngài không trình bày Kitô giáo qua giáo thuyết cho bằng những biến cố được thuật lại trong Thánh Kinh và trong lịch sử Giáo Hội. Và những biến cố đó diễn tả trọng tâm sứ điệp Kitô giáo. Kitô giáo hiện diện không phải để mưu tìm quyền lực (s.28) nhưng là làm chứng tình yêu Thiên Chúa đã dành cho con người và mời gọi con người thông hiệp vào tình yêu ấy ngõ hầu mọi người đều được hạnh phúc ở đời này và trong cuộc sống viên mãn. Thông điệp nêu bật tính chất đặc thù của việc thi hành bác ái của người Kitô hữu, khác với công bằng vốn là mục tiêu cũng như là tiêu chuẩn đánh giá quyền bính dân sự được người dân ủy thác : “Hoạt động bác ái của Kitô giáo phải độc lập với các phe nhóm và ý thức hệ. Nó không phải là một phương thế để thay đổi trần gian về phương diện ý thức hệ, và không nhằm phục vụ các mưu kế trần gian, nhưng nó là một cách thế làm cho tình yêu hiện diện tại nơi đây và lúc này” (s.31). Hoạt động đó “không cảm hứng từ các ý thức hệ có mục tiêu là cải tiến trần gian, nhưng đúng hơn phải được hướng dẫn bởi đức tin hành động nhờ đức ái” (s.33). Những lời này hẳn vang vọng lại lời của Đức Gioan Phaolô II trong lời huấn dụ đầu tiên của ngài cho tất cả những con người thiện chí khi ngài lên nhận sứ vụ Giáo hoàng : Hỡi những con người có thiện chí, đừng sợ mở cửa cho Đức Kitô ! Hoạt động bác ái đó trở thành một “việc chia sẻ của chính bản thân cho đối tượng” (s.34) và như vậy không có ý đồ nào khác hơn là phục vụ con người trong toàn thể tính của nhân tính.

Chính tại điểm này mà Đức Bênêđictô lại một lần nữa nhắc nhở cho những ai muốn dấn thân vào đời sống chính trị không nên biến sự dấn thân đó theo một loại ý thức hệ ôm đồm và muốn giải quyết tất cả mọi sự trong tầm tay của mình. Lịch sử không đi theo một con đường thẳng tắp như thế. Cõi lòng người cần phải liên tục thanh tẩy để khỏi rơi vào cơn cám dỗ của quyền lực. Sự thanh luyện cõi lòng khỏi những cám dỗ của quyền lực chính là cách thức mà Kitô giáo đề ra cho bất kỳ những ai dấn thân vào chương trình đem công bằng đến cho cuộc sống xãhội trần thế. Những ai trong vị thế đem tình thương đến cho người khác luôn được mời gọi hãy trở nên người anh em của những ai thiếu thốn cần đến sự trợ giúp. Và Đức Bênêđictô phân tích thật chính xác : “Những ai đang ở vị thế giúp đỡ người khác sẽ nhận thức rằng khi làm thế chính họ lại nhận được sự giúp đỡ ; có khả năng giúp đỡ người khác chẳng phải là công lao hoặc thành tựu của bản thân” (s.35). Một thái độ như thế thật trái ngược với chủ trương “Người Siêu Nhân” mà Nietzsche cổ võ và các ý thức hệ khác muốn hun đúc nơi con người.

Và cũng tại điểm then chốt này mà thông điệp nhắc nhở việc nhân loại cần đến ơn sủng mạc khải của Thiên Chúa chứ không chỉ là những ao ước làm việc lành mà thôi. Lịch sử chính trị xã hội trong thế kỷ XX đã cho thấy một khi con người từ khước Thiên Chúa và ân sủng ngài thì tệ hại sẽ không thể lường được. Môi trường không chấp nhận ân sủng Thiên Chúa chính là bãi đất phì nhiêu cho những đường lối chính trị nhân danh những hoang tưởng vô căn cớ như ở Auswitch, ở Campuchia, và ở nhiều nơi khác trên thế giới bành trướng không kiểm soát, và trở thành phi nhân đạo xúc phạm tới nhân phẩm của hàng triệu con người mà không lời nào của con người có thể diễn tả hết được.

KẾT LUẬN

Đức Bênêđictô với khả năng dậy dỗ của ngài đã để lại cho chúng ta một thông điệp chạm tới cốt lõi của Kitô giáo : Thiên Chúa là Tình Yêu và con người được mời gọi hướng đến Tình Yêu và sống trong Tình Yêu. Toàn thể Giáo Hội được mời gọi đón nhận sứ điệp này và học hỏi nơi Đức Bênêđictô cách thức loan báo sứ điệp cho thế giới ngày hôm nay. Những khó khăn bên trong cũng như những thách đố đến từ bên ngoài Giáo Hội và những nhu cầu truyền giáo tìm được nơi sứ điệp những gợi hứng thật sâu xa và một chỉ dẫn thật chắc chắn để tìm ra những giải pháp thật cụ thể. Đây chính là chương trình mà Ngài đề ra cho triều đại của Ngài, và thực ra đó chính là chương trình của Thiên Chúa. Mỗi người chúng ta đều được mời gọi đóng góp của mình vào chương trình kỳ diệu, vĩ đại, nhưng cũng rất thực tiễn theo ơn gọi và sứ mệnh đã lãnh nhận.

Trong một bài viết trước khi thông điệp được ban hành, một nhà thần học đã tiên đoán rằng trong thông điệp đầu tiên của ngài, Đức Bênêđictô XVI sẽ đề cập đến mối tương quan giữa chân lý và tự do, sẽ cung cấp cho toàn thế giới nền tảng triết lý và thần học hầu chống lại “chế độ độc tài của chủ nghĩa tương đối” đang phát triển rất mạnh tại Phương Tây và đang lan tràn sang các đại lục khác. Tác giả đó cũng tiên đoán rằng thông điệp đó sẽ nhấn mạnh đến hoạt động của Thiên Chúa nơi Đức Kitô trong dòng lịch sử, hầu chống lại trào lưu tương đối thuyết về tôn giáo, chỉ coi Đức Kitô là một trong những vị cứu thế bên cạnh những vị cứu thế khác. Và điều sẽ không thể thiếu được là thông điệp sẽ phải nhắc đến vấn đề công bằng xã hội là vấn đề đang nóng bỏng trên toàn thế giới.[17][17] Chúng ta đã thấy rằng tác giả đó đã tiên đoán khá đúng những vấn đề mà thông điệp sẽ đưa ra, nhưng, quả thực, thật là một sự bất ngờ khi Đức Bênêđictô lại chọn chủ đề Tình Yêu như là đề tài giáo huấn đầu tiên cho toàn thế giới : một đề tài luôn cũ xưa nhưng lại luôn mới mẻ. Vị gia sư đã biết lấy cái mới từ cái cũ trong kho tàng của mình và đã làm giầu cho kho tàng ấy. Một hình ảnh tích cực của Giáo Hội đang được trình bày cho thế giới. Có thể một số rất đông con người hiện không hoàn toàn chấp nhận Giáo Hội và giáo huấn “khó nghe” của Giáo Hội,[18][18] nhưng, Thông Điệp cho thấy rằng từ cấp thẩm quyền cao nhất là Đức Giáo Hoàng, cho đến các thành phần khác nhau của Giáo Hội, lẽ sống của Giáo Hội không gì hơn là phục vụ cho tình yêu và hạnh phúc của nhân loại. Và cội rễ của hạnh phúc ấy chính là sống Tình yêu. Đó là một tình yêu phải luôn được thanh luyện khỏi những lệch lạc mà chủ nghĩa duy khoái lạc xác thịt tôn sùng, cũng như là một tình yêu đưa tới sự phục vụ cụ thể những con người với bao nhiêu nhu cầu thâm sâu của họ và phải được thanh luyện khỏi những tham vọng muốn xử lý tất cả mọi sự. Trên hết, đó là Tình Yêu mà Thiên Chúa đã tỏ lộ cho con người qua Đức Giêsu Kitô : “Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước, và Ngài còn tiếp tục yêu thương chúng ta ; do đó, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng có thể đáp lại với tình yêu... và tình yêu cũng có thể nở hoa như là lời đáp trả bên trong chúng ta” (s.17).

 

Lm. Giuse Nguyễn Thịnh Phước, sdb

Mục lục

 

PHỎNG VẤN THÁNH PHAN-XI-CÔ XA-VI-Ê


Ngày 1.12.1552, trên đảo Thượng Xuyên, gần tỉnh Quảng Đông, Trung Hoa, thánh Phanxicô Xavier, 46 tuổi, đang chờ một nhà buôn đến đưa ngài vào đất liền. Chỉ hai ngày nữa, ngài sẽ qua đời. Chúng ta đến chòi lá của ngài, để phỏng vấn ngài. Các câu hỏi do chúng ta đặt ra, các câu trả lời thực sự là của ngài.


1. Thưa cha, cha nhất định phải vào Trung Hoa?

 

Hết ngày này sang ngày khác, tôi đang chờ đợi một người Trung Hoa từ Quảng Đông đến đón (Bt 131,10)[1]. Trung Hoa là một nước rộng mênh mông bát ngát, thanh bình, và được cai trị bằng những luật lệ khôn ngoan. Chỉ có một vua mà ai nấy đều hết sức tùng phục. Đó là một vương quốc rất giàu có, tài nguyên đủ loại, không thiếu gì… Người Trung Hoa rất khéo léo và rất hiếu học, nhất là về luật lệ liên hệ đến việc trị nước. Họ rất ham hiểu biết… Họ đại lượng và nhất là rất hiếu hòa. Trong nước không có chiến tranh… Tôi đi Trung Hoa để thực hiện những việc lớn lao nhằm phục vụ Thiên Chúa (Bt 97,19). Trong Thiên Chúa, tôi rất hi vọng là một con đường sắp được mở ra, không chỉ cho anh em trong Dòng Tên, mà còn cho tất cả các dòng khác… (Bt 96,52).


2. Cha biết đó là điều nguy hiểm chứ?


Hai nguy cơ có thể xảy ra, theo như dân địa phương nói. Thứ nhất, người dẫn chúng tôi có thể bỏ chúng tôi trên một đảo hoang, hay ném xuống biển, sau khi đã nhận 200 cruzadoz, để tổng đốc Quảng Đông khỏi biết; thứ hai, nếu họ đưa chúng tôi đến Quảng Đông, và nếu chúng tôi đến gặp tổng đốc, chúng tôi sẽ bị đánh đập hoặc tống giam… Lệnh cấm ở Trung Hoa ngặt đến nỗi không ai được vào nếu không có phép của nhà vua, mà vua đã cấm ngặt người nước ngoài không ai được vào… Chúng tôi cho rằng những nguy hiểm phần hồn lớn hơn những nguy hiểm phần xác nhiều, nên chúng tôi thấy là thà đương đầu với những nguy hiểm phần xác còn yên tâm hơn là để mình bị nguy hiểm phần hồn trước mặt Thiên Chúa. Vì vậy, chúng tôi nhất quyết đến Trung Hoa, bất cứ bằng cách nào. Tôi hy vọng trong Thiên Chúa là chuyến đi Trung Hoa của chúng tôi sẽ thành công và sẽ góp phần vào việc truyền bá đức tin, mặc dầu Kẻ Thù và tay sai chúng có thể tung ra những cuộc bách hại. Thực vậy, “Có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta”(Rm 8,31; Bt 131,3.6).


3. Có vẻ cha thích phiêu lưu mạo hiểm!


Có những người thật là ngược đời: cố lôi kéo Thiên Chúa đến nơi họ thích, chứ không chịu đến nơi Thiên Chúa mời gọi họ tới. Có những người đang theo một con đường gập ghềnh và nguy hiểm để leo lên một ngọn đồi dựng đứng, mà sau bao nhiêu cực nhọc, chỉ chuốc lấy một kết thúc khốn khổ (Bt 6,4). Chúng tôi hoàn toàn không đi tìm những ưu đãi của người đời, và chúng tôi có làm gì cũng chỉ vì Chúa. Thực vậy, nếu phải chịu những gian truân chúng tôi đã trải qua chỉ một ngày thôi để được cả thế giới này, chúng tôi cũng từ chối (Bt 13,3).

 

4. Thời gian ở Ấn Độ của cha thế nào?


Chúng tôi rời Lisbõa đi Ấn Độ ngày 7.4.1541, và đến Ấn Độ ngày 6.5.1542 (Bt 15,2). Khu vực chúng tôi đến gọi là mũi Comorin (Bt 15,14). Tôi đưa theo 3 người bản xứ. Họ rất thông thạo tiếng Bồ Đào Nha, và thông thạo tiếng mẹ đẻ hơn nữa...Chúng tôi đi qua những làng Kitô giáo, nơi dân chúng đã theo đạo khoảng tám năm trước. Không có người Bồ Đào Nha nào sống trong các làng này, vì đất đai cằn cỗi và người ta hết sức nghèo khổ. Vì các Kitô hữu trong các làng này không được ai dạy dỗ về đức tin, nên về đạo, họ không nói được gì hơn là họ có đạo. Không có ai để dâng lễ cho họ, cũng không có ai dạy họ kinh Tin Kính, kinh Lạy Cha, kinh Kính Mừng và kinh Mười Điều Răn. Khi đến các làng này, tôi đã rửa tội cho tất cả trẻ em chưa được rửa tội; và như vậy, tôi đã rửa tội cho rất nhiều hài nhi “chưa biết phân biệt tay phải với tay trái”(Gn 4,11). Hễ tôi đến làng nào, trẻ em chưa cho tôi đọc kinh, hoặc ăn hay ngủ, nếu chưa dạy các em vài ba kinh. Tôi bắt đầu hiểu rằng “Nước Trời thuộc về những ai giống như trẻ em”(Mt 19,4; Bt 19,2). Xong một làng, tôi để lại một người tiếp tục công việc đã khởi sự, rồi đến các làng khác cũng làm y như vậy… Ở những nơi tôi đi qua, tôi để lại những bản viết các kinh, và cho người biết chữ viết lại, cho học thuộc lòng, rồi cho đọc hằng ngày. Tôi cũng cho mọi người họp vào Chúa Nhật để đọc kinh. Tại các làng, tôi đặt người phụ trách công việc này (Bt 20,7).


5. Cha có kêu gọi các bạn ở Châu Âu qua tiếp tay không?


Vì thiếu người lo những việc đạo đức và thánh thiện như vậy, nên nhiều người ngoại đáng lẽ có thể theo đạo mà không theo được. Rất nhiều khi tôi có ý định về bên nhà, đến các nơi người ta học hành, để gào thét như một người mất trí, đặc biệt là ở Đại học Paris. Tôi muốn đến Học viện Sorbonne nói với những người hiểu biết nhiều, nhưng ít muốn làm cho kiến thức của mình sinh hoa kết quả: “Biết bao linh hồn không được hưởng phúc vinh quang, nhưng phải sa địa ngục, vì quí vị lơ là”… Gần như tôi bị thúc bách viết thư cho Đại học Paris… để cho biết là hàng ngàn hàng vạn người ngoại sẽ theo đạo, nếu có được những người không bám lấy lợi lộc riêng tư, nhưng cố gắng sinh lợi cho Chúa Giêsu Kitô, nên tìm kiếm và giúp đỡ các linh hồn”(Bt 20,8)… Ôi! Nếu thay vì chỉ thỏa lòng nhờ hiểu những điều mình học, người sinh viên tìm trong việc giúp đỡ tha nhân biết họ cần gì để cảm nhận được Chúa, người ấy sẽ được an ủi hơn và sẵn sàng tính sổ linh hồn với Chúa hơn, vào ngày Đức Kitô sẽ hỏi: “Hãy tính sổ cho Ta biết ngươi đã quản lý tài sản thế nào”(Lc 16,2; Bt 20,13).


6. Rồi chuyện ở đảo Môrô?


Đối diện với Maluco, có một xứ gọi là Môrô… Trên đảo này, một số đông người theo đạo từ nhiều năm trước, nhưng vì các giáo sĩ đã rửa tội cho họ sau đó qua đời, nên họ bị bỏ rơi, không ai dạy dỗ. Vì khu vực Môrô ấy rất nguy hiểm…, dân chúng thường trộn thuốc độc vào đồ ăn thức uống đem cho người khác, nên những người có thể lo cho các tín hữu tại Môrô đã từ chối, không chịu đến đó. Vì các tín hữu tại các đảo Môrô cần được dạy dỗ về đức tin, và cần có người rửa tội cho họ để họ được rỗi linh hồn, và cũng vì tôi có bổn phận liều mất sự sống trần gian để giúp đỡ tha nhân về đời sống thiêng liêng, nên tôi đã quyết định đến Môrô để giúp các tín hữu trong những điều thiêng liêng, liều mình vào nơi nguy tử, đặt trọn hy vọng và tin tưởng nơi Thiên Chúa… Nhiều bạn hữu và những người quí mến tôi tìm cách ngăn cản tôi lên đường đến một khu vực nguy hiểm như vậy. khi thấy không thuyết phục được tôi bỏ dự tính, họ cho tôi nhiều thuốc giải độc. Tôi rất biết ơn họ đã yêu mến và quan tâm đến tôi, nhưng để đừng chất vào mình nỗi sợ hãi mình vốn không có, và hơn nữa, vì tôi đã đặt trọn vẹn tin tưởng nơi Thiên Chúa, nên để khỏi đánh mất lòng tin tưởng, tôi đã từ chối, không nhận các thứ thuốc mà vì yêu mến, họ khóc lóc để cố ép tôi nhận. Tôi chỉ xin họ luôn luôn nhớ đến tôi khi cầu nguyện, vì đây là thuốc công hiệu nhất để chống lại việc có thể bị đầu độc (Bt 55,4).


7. Vì sao cha lại đi Nhật Bản?


Vì nhận được thông tin rộng rãi về những thuận lợi cho việc truyền bá đức tin tại các đảo của Nhật Bản, và sau khi đã tìm hiểu nơi những người đáng tin vì đã lưu trú trên các đảo của Nhật Bản, tôi đã quyết định xin Thiên Chúa ban cho tôi ơn trọng đại này là nếu tôi đến những khu vực ấy mà phục vụ được Thiên Chúa hơn, thì cho tôi cảm nhận được ý muốn rất thánh của Người trong tâm hồn, và cho tôi sức mạnh cần thiết để thi hành trọn vẹn. Thiên Chúa uy linh đã thương cho tôi cảm nhận được trong tâm hồn là chính vì việc phục vụ Người mà tôi đi Nhật Bản, và vì vậy tôi rời Ấn Độ để thi hành điều Thiên Chúa cho tôi cảm nhận nhiều lần về việc lên đường đi Nhật Bản, với dự tính phục vụ Người (Bt 83,1).

8. Xin cha cho biết đôi chút về thời gian cha ở Nhật Bản.


Trước hết, chúng tôi đến Kagoshima. Chúng tôi ở lại đó hơn một năm (Bt 96,13). Trong năm ấy, chúng tôi dạy giáo lý cho các tín hữu, học tiếng và dịch nhiều điều trong Luật Thiên Chúa ra tiếng Nhật Bản… Các tín hữu cũng như những người chưa theo đạo rất thích nghe những điều ấy, vì họ thấy là đúng… Sau một năm, và vì lãnh chúa địa phương không hài lòng về Luật Thiên Chúa lan tràn tại đó, chúng tôi đến một xứ khác… Nhờ đọc cuốn sách chúng tôi đã dịch sang tiếng Nhật Bản, và nhờ nhiều buổi nói chuyện của chúng tôi, nhiều người đã theo đạo… Sau đó, chúng tôi đến Yamaguchi. Trong thành phố ấy có nhiều hiệp sĩ và những người khác rất ước mong biết Luật chúng tôi rao giảng thế nào. Chúng tôi ở lại trong thành phố ấy nhiều ngày để rao giảng trên đường phố cũng như trong nhà. Dân chúng rất thích nghe kể chuyện đời sống Đức Kitô, và họ khóc hi chúng tôi tường thuật cuộc Thuơng Khó. Nhưng ở đó có ít người theo đạo. Vì thấy ít có kết quả, chúng tôi quyết định đến một thành phố khác, thành phố quan trọng nhất trong toàn bộ Nhật Bản, gọi là Myako. Chúng tôi mất hai tháng trên đường, phải đương đầu với nhiều nguy hiểm, vì có nhiều trận chiến trong các địa phương, mà trời thì rất lạnh, lại có nhiều kẻ cướp nữa. Chúng tôi tìm cách gặp nhà vua để xin phép rao giảng Luật Thiên Chúa trong vương quốc, nhưng không gặp được. Vì sau đó chúng tôi được biết là người ta không phục tùng nhà vua, nên chúng tôi quay trở lại Yamaguchi… Thường chúng tôi giảng mỗi ngày hai lần. Sau bài giảng là một buổi thảo luận kéo dài khá lâu. Nhà chúng tôi gần như lúc nào cũng đầy người, và thường người ta không vào trong nhà hết được. Họ đặt ra cho chúng tôi biết bao nhiêu câu hỏi, và chúng tôi giải thích cho họ bao nhiêu điều, đến nỗi họ nhìn nhận rằng Luật của các vị thánh hiền họ từng tin là sai, và Luật Thiên Chúa là đúng. Nhiều ngày sau, họ bắt đầu theo đạo, và những người đầu tiên theo đạo lại chính là những người từng tỏ ra thù nghịch nhất cả khi chúng tôi giảng cũng như trong khi thảo luận… Trong khi chúng tôi đang ở thành phố Yamaguchi, thì một lãnh chúa rất quan trọng là công tước xứ Bungo viết thư mời đã đến chỗ ông, vì có một tàu Bồ Đào Nha đã vào cảng của ông, và ông muốn trao đổi với tôi một số điều quan trọng. Hiểu là ông muốn theo đạo, và tôi cũng mong được gặp những người Bồ Đào Nha, tôi đã đi Bungo… Từ Bungo, tôi không trở lại Yamaguchi, nhưng quyết định đi Ấn Độ, trên một chiếc tàu Bồ Đào Nha, để gặp lại anh em ở Ấn Độ, và được vui mừng vì gặp lại nhau, vừa để đưa đến Nhật Bản các cha trong Dòng Tên, vì xứ ấy cần các cha, và cũng để từ Ấn Độ đem theo một số điều cần thiết mà ở Nhật Bản không có (Bt 96,13.14.36.40).


9. Xem ra như là mọi sự có vẻ nhẹ nhàng, nhưng chắc là cha đã gặp rất nhiều khó khăn!


Tất cả các thân hữu và bạn hữu tôi đều sợ lắm, vì tôi thực hiện một cuộc hành trình lâu dài và nguy hiểm như vậy. Phần mình, tôi sợ hơn họ, vì thấy họ tỏ ra thiếu đức tin. Thiên Chúa chỉ huy và có quyền trên bão tố ở biển Trung Hoa và Nhật Bản, mặc dầu chúng mạnh hơn tất cả bão tố người ta đã gặp từ trước đến nay. Ngoài gió, còn có đá ngầm, nhiều lắm, theo người ta nói, và nhiều con tàu đã tiêu tan ở đó. Nhưng Thiên Chúa là Đấng hùng mạnh. Thiên Chúa chỉ huy và có quyền trên tất cả những tên hải tặc trên biển, dù số này đông đến mức đáng sợ. Những tên hải tặc này rất tàn ác, chúng làm đủ thứ để tra tấn và hành hạ những người bị chúng bắt, nhất là người Bồ Đào Nha. Vì Thiên Chúa có quyền trên chúng hết thảy, nên tôi không sợ ai, ngoại trừ Thiên Chúa, chỉ sợ Người phạt vì chểnh mảng trong việc phục vụ Người, vì vụng về và vô dụng trong việc truyền bá danh Chúa Giêsu giữa những kẻ chưa biết Người. Còn những nỗi sợ khác, những nguy hiểm khác, những đau khổ khác, mà bạn bè nói tới, đã kể là số không. Tôi chỉ còn sợ Thiên Chúa, vì nỗi sợ đối với các thụ tạo chỉ lớn tới mức Đấng Sáng Tạo ra chúng cho phép là cùng (Bt 78,2). Vì ma quỉ không làm hại con người hơn mức được Thiên Chúa cho phép, nên vào những giờ phút ấy, phải sợ mình thiếu tin tưởng nơi Thiên Chúa hơn là sợ chính Kẻ Thù… Không ai là người yếu đuối, nếu biết tận dụng ơn Thiên Chúa ban cho mình (Bt 90,8.9).

10. Nghe nói khi gặp nguy hiểm, cha xin Chúa đừng để mình thoát khỏi!


Trong chuyến đi từ Malacca đến Ấn Độ, tôi đã trải qua nhiều nguy hiểm, vì bão suốt ba ngày ba đêm, bão lớn tôi chưa từng gặp bao giờ. Nhiều người còn sống đã than khóc như sắp chết, và thề sống thề chết là nếu Chúa cho thoát được thì sẽ không bao giờ đi biển nữa. Chúng tôi đã liệng hết đồ đạc xuống biển, bỏ của chạy lấy người. Khi trận bão lên đến cực điểm, tôi đặt mình trong tay Chúa… Mỗi lần gặp nguy hiểm, tôi cầu xin các thiên thần, cũng như các thánh tổ phụ, ngôn sứ, tông đồ, thánh sử, tử đạo, tuyên đạo, đồng trinh và tất cả các thánh trên trời. Và để chắc được Thiên Chúa tha thứ muôn vàn tội lỗi, tôi xin Đức Mẹ vinh hiển cầu khẩn cho mình, vì ở trên trời, Mẹ xin gì với Thiên Chúa cũng được nhậm lời. Cuối cùng, tôi đặt hết hy vọng nơi Đức Giêsu Kitô là Đấng Cứu Chuộc và là Chúa chúng ta, Đấng đã chịu nạn chịu chết mà lập công đền tội chúng ta. Trong cơn bão tố, nhờ được giúp đỡ và phù hộ như trên, tôi thấy mình được an ủi có thể nhiều khi còn hơn cả lúc tôi thoát khỏi cảnh ngặt nghèo. Khi nhớ lại mình là kẻ rất tội lỗi, tôi đã khóc vì được vui mừng và an ủi giữa lúc khốn đốn, tôi thật xấu hổ. Vì thế, lần gặp bão này, tôi đã xin Thiên Chúa chỉ cho tôi thoát trận bão ấy nếu Người cho tôi chịu những trận khác lớn bằng hay lớn hơn nữa, để phục vụ Thiên Chúa hơn (Bt 59,20-21).


11. Có khi nào cha bị cám dỗ bỏ cuộc không?


Có lần ở Ấn Độ, tôi đã phải thốt lên: Bảo đảm và chắc chắn là hôm nay mà có tàu đi, tôi sẽ đi ngay lập tức…Tôi không biết còn làm gì được nữa, nếu không phải là chẳng nên mất thêm thời giờ để sống giữa những người không biết tôn trọng chi hết…Thực là tôi buồn không bút nào tả xiết (Bt 41,1.4). Tôi chán sống đến nỗi thà được chết trong khi truyền bá luật Chúa và đức tin của chúng ta còn hơn cứ phải thấy người ta xúc phạm đến Chúa mà mình không làm gì được (Bt 44,3)… Sống ở nơi người ta thờ tượng thần, nơi khó chịu vì khí hậu rất oi bức; tất cả những trở ngại ấy, nếu biết chấp nhận nhân danh Chúa, chúng sẽ trở nên nguồn phúc đức và dịp lãnh những an ủi lớn lao. Tôi tin rằng ai thực lòng yêu mến Thánh Giá Chúa Kitô sẽ tìm thấy an nghỉ khi đương đầu với những thử thách, và họ sẽ chết khi trốn hoặc thiếu thử thách. Còn cái chết nào tệ hơn đời sống của người, sau khi đã biết Chúa Kitô, lại bỏ Chúa để chạy theo sở thích và quyến luyến riêng! Thật không gì buồn hơn. Trái lại, ai chết đi mỗi ngày, đi ngược lại ý riêng, không tìm những điều thuộc về mình, nhưng là những điều thuộc về Chúa Giêsu Kitô, sẽ được bình an biết bao! (Bt 15,15). Những cám dỗ thường ngăn cản những người yếu đuối đạt đến điều trọng đại này là hiểu biết Thiên Chúa vô cùng nhân hậu thế nào, vì sống trên đời mà không cảm nếm được Thiên Chúa thì đó không phải là sống, mà là chết dần chết mòn (Bt 90,26).

12. Dòng Tên là “hậu phương” lớn của cha?


Tôi nghĩ rằng Dòng Tên là “Dòng yêu mến và hiệp nhất tâm hồn” (Bt 70,5)… Tất cả anh em trong Dòng hiện diện liên lỷ trong tâm trí tôi (Bt 48,1)… Ở Ấn Độ, để giải trí, tôi rất thường nhớ đến anh em trong Dòng, và nhớ đến thời gian, vì Chúa quá thương, tôi được biết anh em và sống với anh em. Tôi tự biết và cảm thấy trong lòng là, do lỗi mình, tôi đã để thời gian ấy qua đi mà không rút được ích lợi từ bao nhiêu điều chính Chúa cho anh em hiểu biết. Nhờ lời anh em cầu nguyện, và vì anh em luôn luôn nhớ đến tôi, Chúa ban cho tôi ơn rất lớn là dù xa cách anh em về thể xác, nhưng nhờ anh em nâng đỡ và giúp đỡ, Chúa cho tôi cảm thấy muôn vàn tội lỗi của mình, và cho tôi sức mạnh để đến giữa dân ngoại (Bt 20,14)… Để đừng bao giờ quên anh em trong Dòng, và lúc nào cũng nhớ đặc biệt đến anh em, tôi đã cắt tên của anh em trong các thư tử chính tay anh em viết cho tôi, để có thể luôn luôn mang trên mình, cùng với lời khấn của tôi. Điều này đem lại cho tôi nhiều an ủi… Tôi cảm thấy sung sướng khi mang tên của anh em trên mình (Bt 55,10)… Chúa biết cho là gặp anh em thì tâm hồn tôi được an ủi hơn nhiều. Vậy mà tôi cứ phải viết thư cho anh em, lại không chắc thư đến, vì từ Ấn Độ đến Rôma xa quá… Tôi nghĩ mình không lầm khi nói xa cách phần xác không làm cho chúng ta, vốn yêu mến nhau trong Chúa, bớt yêu mến và nghĩ đến nhau (Bt 48,1)… Nếu ở đời này, người ta thấy được trái tim của những người yêu mến nhau trong Đức Kitô, thì anh em Dòng Tên sẽ thấy rõ chính anh em trong trái tim tôi (Bt 90,60)… Khi nói về Dòng Tên, tôi không biết làm sao chuyển sang đề tài khác được, và không sao dừng bút được… Nếu khi nào tôi quên Dòng Tên Chúa Giêsu, thì xin cho tôi quên cả tay phải mình đi, vì nói sao thì nói, tôi biết là mình mắc nợ rất lớn đối với tất cả anh em trong Dòng (Bt 59,22).

13. Đặc biệt với cha I-nhã?

 

Chúa đã ban ân huệ lớn lao khi cho tôi được biết Cha I-nhã. Bao lâu còn sống, không bao giờ tôi trả được món nợ đối với ngài (Bt 1,6)…Trong số nhiều lời thánh thiện và an ủi của ngài, tôi đọc được những lời thế này: “Hoàn toàn thuộc về nhau. Không bao giờ quên được nhau.” Tôi đã rơi lệ khi đọc những chữ ấy, và cũng rơi lệ khi kể lại, vì nhớ lại thời gian đã qua, nhớ đến ngài đã và vẫn luôn luôn rất thương tôi, và nhờ những lời khẩn nguyện thánh thiện của ngài, Thiên Chúa đã cho tôi thoát được bao gian nan, bao nguy hiểm (Bt 97,1)… Đó là một con người hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa, đời sống không có gì chê trách được (Bt 1,7).


14. Nếu lần này Cha không vào Trung Hoa được?


Xin Chúa thương cho ông ấy đến, như tôi vẫn ước mong; vì nếu làm sao đó mà Thiên Chúa không muốn như vậy, tôi không biết sẽ phải làm gì, hoặc là phải đi Ấn Độ hay Thái Lan, để từ Thái Lan theo phái đoàn sứ thần vua Thái Lan cử sang Trung Hoa (Bt 131,10).

 

15. Có người nghĩ là cha có đầu óc chinh phục!

 

Muốn sống tốt ở đời này, chúng ta phải làm khách hành hương để đi bất cứ đâu, đến nơi chúng ta có thể phục vụ Chúa (Bt 50,2).


Đặt câu hỏi: Hoàng Sóc Sơn

Mục lục

 

Text Box: TÌNH YÊU – HÔN NHÂN – GIA ĐÌNH

 

 

 


 

 

NHỮNG QUAN NIỆM SAI LẦM VỀ TÌNH YÊU VÀ HÔN NHÂN GIA ĐÌNH HIỆN NAY

HẬU QUẢ VÀ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC

 

 

Tôi rất bức xúc khi nghe những ca tư vấn về những bi kịch tình yêu hôn nhân và gia đình. Đồng cảm với những xót xa đau thương của họ tôi luôn tự hỏi: Một cuộc sống lứa đôi không có hạnh phúc như thế có tình yêu không?

“Cô ơi, em muốn tự tử … Em đã trao đời con gái cho bạn trai nhưng anh ấy lại bỏ em rồi!”

“Em hoàn toàn tuyệt vọng vì chồng em đang chơi tình yêu tai ba!”

“Chồng em đi chơi suốt đêm!”

“Chồng em lạnh nhạt với em và vô trách nhiệm trong gia đình!”

“Chồng em luôn đánh đập em và hối thúc em ký vào tờ đơn xin ly dị!”

“Em bị giam trong nhà suốt ngày, chồng em không cho em đi làm và cấm mọi quan hệ giao tiếp!”

“Cô ơi, bạn gái em đang là sinh viên, nhưng em làm một tháng 15 triệu mà vẫn không đủ chi cho cô ta. Em phải xin ba mẹ thêm 7 triệu nữa. Nếu em không đáp ứng nhu cầu cô ta thích, cô ta lại gọi điện cho bạn trai khác. Em yêu cô ta nên phải liều thôi nhưng không biết rồi sẽ ra sao! Em có chọn đúng đối tượng không cô?”

“Em ra trường 5 năm rồi và đã có một việc làm ổn định. Em muốn kết hôn nhưng làm sao có thể chọn được một cô gái còn nguyên vẹn? Em đã quen 4 cô, nhưng cô nào cũng dễ dãi trong quan hệ tình dục và cô nào cũng không phải là lần đầu tiên!”

“Cô ơi, sau khi em đi chữa bệnh về, vợ em đã cặp với một cậu nhỏ hơn 10 tuổi. Hiện nay cô ta nhất quyết xin ly dị với em.”

            Những lời than tiêu biểu đó phải chăng là tiếng chuông cảnh giác mọi người và đặc biệt là các bạn trẻ nam nữ hãy nhận diện lại những sai lầm về tình yêu và hôn nhân gia đình để tránh những bi kịch thảm khốc của một đời sống đôi lứa không có  tình yêu đích thực.

 

 I. NHỮNG QUAN NIỆM SAI LẦM VỀ TÌNH YÊU, HÔN NHÂN, GIA ĐÌNH VÀ HẬU QUẢ CỦA NÓ.

1. Tình yêu là sự cuốn hút

            Nhiều cô cậu mới lớn tưởng rằng mình đã yêu sau lần đầu tiên tiếp cận với một đối tượng khác giới: Nàng đẹp quá, hấp dẫn từ ánh mắt, gương mặt và dáng người. Chàng thì rất thanh lịch, nói hay và thật là nồng nhiệt trong cách ứng xử. Thế là khởi đầu một cuộc săn đuổi với những cảm giác yêu thương và rung động thẩm mỹ. Họ cuồng say bên nhau, nhanh chóng yêu và nhanh chóng ngã gục, từ trượt ngã đầu đời, tiếp đến là đứt gánh học hành, đánh mất tương lai.

 2. Tình yêu là chiếm hữu

            Nhiều người trong quan hệ lứa đôi coi người yêu là tài sản của mình. Họ muốn đặc quyền chiếm hữu và quản lý rất chặt chẽ. Họ không hề nghĩ đến nhân quyền: quyền tự do, bình đẳng và phát triễn của người mình yêu. Họ ghen tương và sẳn sàng áp dụng mọi chiến thuật phi nhân để làm khổ người yêu, làm hại người thứ 3 và trả thù khi không được yêu. Các nhà phâm tâm học cho thấy mẫu người như thế là những con người ích kỷ, họ chẳng yêu ai hết mà chỉ biết yêu mình. Kết quả là họ không được yêu, không cảm nhận được một giây phút nào hạnh phúc của một tình yêu chân chính. Dù họ có dùng bạo lực để khống chế, thì thực trạng bị dồn nén đến mức cuối cùng của đối tượng cũng sẽ bùng nỗ, bật tung để khởi tố một vụ ly hôn nghiệt ngã.

 3. Tình yêu là tình dục

            Nhiều bạn trai thiếu tự chủ đã đẩy bạn gái vào chân tường với câu nói dọa nạt: “Nếu em không cho anh … tức là em không yêu anh, chúng ta đành phải chia tay thôi.” Và nhiều bạn gái dù đã quyết tâm gìn giữ “chiếc then cài Tạo hóa” của mình, cũng vẫn yếu lòng nhượng bộ cho quan hệ tình dục trước hôn nhân để rồi từ đó biến thành kẻ lệ thuộc, phải van xin để có một ngày cưới nếu không muốn là người bị bỏ rơi.

Trong đời sống gia đình, có khi một bên vì sức khỏe cơ thể không thể sinh hoạt tình dục  bình thường cũng dẫn đến nguy cơ của những vụ ngoại tình đưa đến giận hờn gây gỗ và kết thúc là ly hôn.

 4. Tình yêu là chi tiền

            Nhiều người đàn ông cho rằng họ đi làm đưa về cho vợ một số tiền thế là đủ ngoài ra không một thái độ quan tâm, không một lời hỏi thăm, khích lệ về những tận tụy của vợ dành cho mình. Có chị em phụ nữ tâm sự: “Em làm việc thành công, có tiền bạc, có mọi nhu cầu tiện nghi nhưng em rất thiếu thốn tình cảm. Em mong muốn một tình yêu chân thành của chồng hơn tất cả mọi sự nhưng không có. Ngược lại, có những chị em lại quá đòi hỏi chồng về tiền bạc.

Có bạn gái khi được người yêu cho nhiều tiền và tặng những món quà quý giá đã vội vàng nhận lời cầu hôn để rồi lại vội vàng than thân trách phận vì bị phụ bạc. Cũng có không ít nam giới mắc phải sai lầm là mang lợi nhuận để mua chuộc tình yêu và họ đã nhanh chóng phải trả giá là họ chỉ chung sống một thời gian rồi xin ly hôn để được phân chia tài sản.

 5. Tình yêu là thương hại

            Có những cuộc hôn nhân đến từ lòng thương hại vì một bên đã nuôi dưỡng mình, đã hy sinh cho mình quá nhiều hoặc đã theo đuổi mình quá lâu. Nhưng vì không có tình yêu nên thường đưa đến buồn chán, ân hận và nuối tiếc. Nếu không can đảm ly dị thì cũng không thể tránh khỏi sự xuất hiện của người thứ ba.

 

II. ĐỀ NGHỊ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC

 1. Cần có thời gian để nhận diện tình yêu

 Các nhà tâm lý xác định rằng: tuổi thanh niên là tuổi đang có nhiều biến đổi sâu sắc về thể chất, tâm lý và quan hệ xã hội. Trong khi đó tình yêu đích thực chỉ có nơi một nhân cách đã trưởng thành. Đó là một dạng tình cảm ổn định chân thành và mãnh liệt. Vì thế, các bạn trẻ không nên vội kết hôn vì nơi các bạn còn nhiều biến đổi và các bạn cần có nhiều cơ hội hơn để quan sát hành vi và thử thách tình huống đối tượng của mình. Nhờ hiểu biết hơn các bạn sẽ chọn được đối tượng thích hợp hơn. Một tình yêu chân chính cần có sự hòa hợp về tâm hồn, trí tuệ để làm bạn với nhau, tôn trọng nhau và để cảm thông trọn vẹn với nhau. Đó là cả một tiến trình luôn phải khám phá, luôn mãi ngạc nhiên, một tiến trình không ngừng chinh phục và đổi mới nhau trước khi quyết định là bạn đời của nhau.

 2. Xây dựng một tình bạn tự do, tự chủ và bình đẳng

 - Khi chưa cưới nhau, sự thân mật cần có giới hạn, đừng quá liên hệ về kinh tế, xài tiền chung hay tặng nhau những món quà đắt tiền quá.

- Đừng tiến tới sinh hoạt tình dục trước hôn nhân. Sự thỏa mãn sẽ bị trả giá là thái độ nhàm chán và coi thường nhau. Tình yêu chân thành luôn là một tình thương biết hy sinh cho nhau và tôn trọng nhau. Vậy các bạn trai hãy gìn giữ cho bạn gái để tình yêu luôn giữ  được sự bình đẳng và tự do của tình bạn.

 3. Xây dựng và gìn giữ tình yêu

            Nhà văn hào Doxtoiepxki đã khẳng định: “Gia đình được tạo nên bằng lao động không mệt mỏi của tình yêu.” Vì thế, sau khi đã nhận diện để chọn được người bạn đời lý tưởng, bạn cũng cần nỗ lực không ngừng để gìn giữ tình yêu, nếu không hạnh phúc cũng sẽ vô tình vụt khỏi tầm tay của bạn. Tình yêu không thể chiếm hữu một lần nhưng tình yêu là một tiến trình sống luôn phải xây dựng. Tình yêu là cây hạnh phúc luôn cần được chăm sóc mỗi ngày.

Các nhà tâm lý đề nghị một số việc nên làm và nên tránh sau đây:

-  Bạn hãy có những cử chỉ đáng yêu, dù nhỏ, bạn sẽ giữ được tình yêu bền vững. Hãy nói với nhau những điều cần nói: một lời cám ơn hay một lời khen khi được quan tâm, một lời xin lỗi vì sự lỡ lầm, một lời động viên tỏ ra tôn trọng những công việc người bạn đời làm cho gia đình và cho xã hội. Hãy mĩm cười luôn để tạo niềm vui cho nhau, qua bức thư tình khi xa nhà, qua một bộ trang phục thích hợp, qua việc làm cho nhau ăn hay mời nhau đi ăn những món hợp sở thích của nhau.

-  Trái lại, hãy tránh những nỗi bất hòa, không quở trách đánh giá quá thấp người bạn đời nhưng hãy trao đổi một cách chân thành, rõ ràng và ngắn gọn cái gì làm cho bạn không hài lòng. Cần nói về bản chất của sự bất hòa, không nên rút ra những nhận xét về nhân cách của nhau. Cách phản ứng vội vàng với những câu nói ngẫu nhiên, thiếu suy nghĩ, thường tạo nên hố ngăn cách sâu hơn về mặt tình cảm. Cần tự giác xét lại bản thân, nhận ra lỗi của mình thay vì chỉ buộc tội cho người thứ hai và người thứ ba.

Tóm lại, nếu bạn muốn trở thành người hạnh phúc, hãy tự nguyện và bền bỉ xây dựng mối quan hệ với người yêu suốt cả cuộc đời theo quy luật của tình yêu. Dù trong giai đoạn mới quen, giai đoạn tìm hiểu hay trong đời sống gia đình nếu có người thứ ba xuất hiện dưới dạng thức nào, bạn vẫn luôn là người lạc quan, tự tin trong cuộc thi tuyển nhân cách và tự do lựa chọn một tình yêu chân chính  đem lại hạnh phúc đích thực. Như thế, những bi kịch của tình yêu không phải là do sự xuất hiện của người thứ ba, nhưng là do thái độ chọn lựa của từng nhân cách dưới ánh sáng và bóng tối của cuộc đời.

 

 

 PHẠM THỊ OANH

Chuyên Viên Tư Vấn Tâm Lý GD và Tình Yêu

Mục lục

 

Text Box: ĐỌC SÁCH

 

 

 

 

 


 

VỤN VẶT SUY TƯ

 

 CHÂN LÝ Ở ĐÂU?

 

 

1.         Bà Pearl Buck (giải Nobel văn chương 1938) là con của một nhà truyền giáo Tin Lành. Bà đến Trung Hoa khi chưa biết gọi “mẹ”. Bà nói tiếng Hoa trước khi nói tiếng Mỹ, vì suốt ngày sống với cô vú người Hoa. Bà kể lại rằng một ngày kia bà sửng sốt và giận dỗi vì người Hoa chê người Mỹ: “Người Mỹ nào cũng có mùi hoi hoi, mùi của con dê đực”. Bà không hiểu tại sao cái mũi của người Hoa lại sai lầm như thế.

Sau này có một lần được trở về Mỹ. Bà đi coi hát ở rạp xinê. Hôm ấy bà mới thấy rằng cái lỗ mũi của người Hoa có lý. Bà tự thú: “Quả thật người Mỹ chúng ta hôi quá…”

Vậy thì khách quan mà nói: Người Mỹ hôi hay không hôi? Mũi người Tàu cảm giác đúng hay sai? Chúng ta không trả lời được. Nhưng chắc chắn rằng mũi người Tàu cảm thấy rằng người Mỹ có mùi hoi hoi như mùi của dê đực. Vậy thôi. Đừng tranh cãi làm gì. Ơ đây không có chân lý tuyệt đối. Chỉ có chân lý của người này người nọ, trong hoàn cảnh này và hoàn cảnh kia… Tương đối mới là định luật cho con người.

 2.        Trái sầu riêng nằm chình ình ở giữa tấm pông sô, Nam thanh nữ tú quỳ xung quanh. Mắt Nam kỳ sáng lên đồng thanh tuyên ngôn: “Thơm tuyệt vời”. Bắc kỳ khịt khịt lỗ mũi nhất loạt tuyên bố: “Thối như c…”

            Số lượng Bắc kỳ và Nam kỳ thì bằng nhau. Số thăm “pro” và “contre” cũng bằng nhau. Vậy thì sầu riêng là thơm hay là thúi? Không ai dám trả lời. Đành án binh bất động. Dường như phía Bắc kỳ có vẻ mạnh hơn về mặt dẫn chứng cho lý luận:

Sầu riêng nhão nhão giống y như “nó”.

Sầu riêng có màu vàng vàng y hệt món “ấy”.

Do đó kết luận rằng sầu riêng giống như “c…” thì quả là không sai.

            Nhưng trong thực tế, thì Nam kỳ thủ lợi tuyệt đối. Bắc kỳ bỏ đi, Nam kỳ xơi hết. Trơ trụi. Nhẵn nhụi…

            Một vài nhà tu đức nhào vô đề nghị: Vì tình yêu đồng bào ruột thịt, yêu cầu mọi người từ Bắc chí Nam đồng tâm nhất trí tuyên bố “Sầu riêng thơm tuyệt vời”. Im lặng tuyệt đối. Đề nghị thứ hai ra đời: Vì tình yêu đại đồng, xin mọi người từ Nam chí Bắc một lòng một dạ khẳng định rằng: “Sầu riêng thối như c…”. Vẫn im lặng tuyệt đối

            Có ai đó lẩm bẩm: “Đồng tâm nhất trí giả tạo. Một lòng một dạ gian dối. Tấy cả đều do ma quỷ mà ra”.

            Một ai đó lại rù rì một mình: “Sầu riêng thơm hay thúi thì kệ cha nó. Cần gì phải “một lòng một dạ”, “đồng tâm nhất trí” um sùm lên làm chi cho rối việc. Đứa nào thích thì ăn. Đứa nào chê thì đi chơi chỗ khác. Đừng cãi nhau nhức đầu lắm.           

 3.        Augustinô, nguyên giáo sư Đại học Milanô, vắt tay khu đít, tản bộ trên bờ biển thanh vắng. Ong là triết gia, ông là trí thức, ông bẩm sinh khôn ngoan hơn người. Ong nhập đạo, nhưng vẫn kiêu ngạo. Ong không chịu đầu hàng trước cái gọi là “Mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi”. Ong vắt óc suy nghĩ. Vắt mãi mà chả được gì. Ong muốn giải trí một tí. May quá có thằng cu tý lạ hoắc vọc cát trên bãi. Nhà thông thái dừng chân để thư giản.

Bé làm chi mà cứ múc nước đổ hoài vào cái lỗ đó?

Thưa bác, con muốn tát cạn cái biển kia. Con muốn rút hết nước của nó bỏ vào cái lỗ còng này.

Sau con làm gì mà kỳ vậy. Lỗ thì nhỏ, biển thì mênh mông. Làm sao con thu hết cái mênh mông vào cái tí xíu.

Bác còn kỳ hơn con nữa. Cái đầu của bác thì bé tí mà bác đòi hiểu cái cao xa bạt ngàn bát ngát của Chúa Ba Ngôi… (Nói xong, thằng bé bốc hơi).

Giáo sư Augustinô mắc cỡ, cúi đầu làm thinh, chừa cái thói kiêu ngạo, lấy “tương đối” để gói cái “tuyệt đối”.

Thì ra ở đời vẫn có chân lý. Nhưng là chân lý của loài người bé tí. Chân lý tuyệt đối vẫn xa lắc xa lơ ở trên trời bao la. Khiêm tốn chờ mong, đừng hòng nắm bắt.

 4.        Ong Pharisêu, ông kinh sư, an tâm bước đi trên đường lịch sử. Ong có chân lý tuyệt đối làm kim chỉ nam, làm bản đồ để dìu dắt ông và để ông dìu dắt ngàn vạn sinh linh. Chân lý ấy, kim chỉ nam ấy là LUẬT.

            LUẬT tự bản chất là thánh được Giavê mạc khải cho Môisê viết ra. LUẬT trải đều trên các trang sách Lêvi và Đệ Nhị Luật. LUẬT còn rải rác trên sách Dân số và Xuất hành.

            Các ráppi quả quyết rằng càng chi li trung thành với LUẬT bao nhiêu thì càng thánh thiện bấy nhiêu.

            Con đường “LUẬT là chân lý” ấy chạy ngoằn ngoèo trên dòng lịch sử 13 thế kỷ. Chẳng ai dám thắc mắc. Dại gì mà thắc mắc. Rồi đến một ngày kia, Đức Giêsu nói ”không” với một số LUẬT thánh.

LUẬT cho ly dị. Đức Giêsu bảo “không”.

LUẬT cấm trị bệnh ngày Sabát. Đức Giêsu chữa bệnh tước hạt sen, bất phân ngày thường hay ngày Sabát.

LUẬT bảo ném đá những ai ngoại tình. Đức Giêsu bảo: “Ai sạch tội thì ném đá trước đi”.

 

Nhận xét về LUẬT, Đức Giáo Hoàng Phêrô đã mạnh dạn tuyên bố: “Chúng ta không được thách thức Thiên Chúa mà quàng lên cổ tín hữu cái ách mà cả ông cha chúng ta lẫn chúng ta vác không nỗi” (CV 15,10)

Cái chân lý tuyệt đối của LUẬT, bỗng rơi xuống hàng tương đối. Hẫng. Hẫng cho 13 thế kỷ dài đằng đẵng. Một bài học chua chát cho muôn thế hệ.

 

 

Lm. Piô NGÔ PHÚC HẬU

 

Mục lục

 

 

 

 

 

Text Box: Để xem them các bài viết khác xin mời vào Trang Nhà Tin vui
 (website)  http://www.tinvui.org
Thư từ, ý kiến, và bài vở xin gửi  về  bantreconggiao@yahoo.com
Muốn nhận báo cũ và mới xinQuý Vị gửi về tinvuivietnam@gmail.com.
CHÂN THÀNH CÁM ƠN
?¶?
 


 

 


 

[1][1] x. Paulo Martucelli, Origine e Natura della Chiesa : La Prospettiva storico-dommatica di Joseph Ratzinger, (Berlin : Peterlang, 2000), tr. 461-496

[2][2] Một vài tình trạng có thể ghi nhận như sau : số linh mục, tu sĩ giảm sút trầm trọng ; con số giáo dân thực hành đạo đã cực kỳ suy giảm (vd : 8% dân Công giáo đi lễ Chúa Nhật) ; các giáo huấn luân lý bị coi thường ; v.v.

[3][3] Joseph Cardinal Ratzinger, Principles of Catholic Theology, (San Francisco : Ignatius, 1987), 15-27. Trong buổi gặp gỡ với ban biên tập của tập san chuyên đề thần học Communio vào năm 1972, Đức Ratzinger đã phàn nàn rằng ban biên tập đã quá chú tâm đến những đề tài thần học suy lý mà thiếu chú ý đến những vấn đề then chốt liên quanđến đức tin và văn hoá ngày nay.

[4][4] Châm ngôn của Đức Tổng Giám Mục Joseph Ratzinger là : “Cộng tác vào việc truyền bá sự thật” (3 Gioan).

[5][5] x. America, Feb 13, 2006 v. 194 i 5 tr. 4 : Khi còn là Hồng Y, Đức Joseph Ratzginger luôn mong muốn Giáo Hội phải tìm ra được cách thức đem lại cho thế giới niềm vui là tâm điểm khi đón nhận Tin Mừng.

[6][6] trích theo Aidan Nichols, OP, The Thought of Benedict XVI : an Introduction to the Theology of Joseph Ratzinger, (Cambridge: Blackfriars, 1987), tr. 26.

[7][7] x. Thông điệp Redemtor Hominis của Đức Gioan Phaolô II.

[8][8] Luigi Caponigri, History of Philosophy, 190

[9][9] Friedrich Nietzsche, Zarathrustra Đã Nói Như Thế, tr. 165.

[10][10] Chúng ta có thể kể ra đây những lý thuyết gia ảnh hưởng nhất của trào lưu hậu tân thời như Michel Foucault, Jean-Francois Lyotard, và Jacques Derrida. Foucault chủ trương lập trường này căn cứ vào cái nhìn duy lịch sử theo đó lịch sử là một cuộc theo đuổi của các quyền lực. Các phán định của xã hội về điều bình thường hay bất thường, xấu hay tốt đều từ đó mà ra. Lyotard, triết gia người Pháp, phê phán các triết lý Tân thời (modern) là chẳng hề xây dựng những quả quyết chân lý của mình dưạ trên cơ sở luận lý hay thực nghiệm, nhưng thực ra là trên những câu chuyện lớn lao ‘đã được chấp nhận’ không bàn cãi, tức quả quyết chân lý của họ chỉ có trong “bộ luật chơi của họ mà thôi.” Ngoài bộ luật chơi đó thì không còn có giá trị gì. Derrida còn bi quan hơn thế nữa khi ông áp dụng cái nhìn hậu tân thời này vào trong việc đọc các văn bản, và cho thấy rõ, không hề có sự xác định vững chắc nào trong các bản văn. Tất cả đều rời rạc và hàm hồ. Cái gọi là ý nghĩa chỉ là ý nghĩa của cộng đoàn hình thành nên câu truyện đó chứ còn ở ngoài cộng đoàn thì không còn ý nghĩa rõ rệt và nhất định như các thành viên quả quyết. x. Kevin J. Vanhoover, Postmodern Theology, (New York: Cambridge University Press, 2003), tr. 1-24.

[11][11] x. Lewis Edwin Hahn, The Philosophy of Hans-George Gadamer, (Illinois: Open Court Publishing House, 1997).

[12][12] Tham luận của Đức Hồng Y Ratzinger tại Tu Viện thánh Scholastica ở Subiaco, một ngày trước khi Đức Gioan Phaolô II băng hà. Nội dung về tình trạng Giáo hội tại Âu Châu hiện nay (đăng tại Zenit.org ngày 26 tháng 7 năm 2005) t- Sđd.

[13][13] Sđd.

[14][14] Sđd.

[15][15] x. Vittorio Messori, The Ratzinger Report, (San Francisco : Ignatius, 1985), tr. 93-112 : Trong bầu khí văn hoá tôn sùng tính dục, nhiều người trẻ thường coi giáo huấn của Giáo Hội về đời sống trinh khiết, sự độc thân và các luật lệ về trung thành trong đời sống hôn nhân là những gì áp chế con người (x. Nietzsche), Đức Ratizinger đã nhiều lần vạch ra sự tách biệt giữa mẫu tính và bản chất nữ giới là một trong những nguyên nhân đưa đến rất nhiều tình trạng phá thai, hôn nhân ngoài hôn thú, sự đỗ vỡ của gia đình. x. Hồng y Ratzinger, Le Sel de La Terre, (Paris : Le Cerf, 1997) ; bản dịch tiếng Việt, Muối Cho Đời ; (HCM : Thời Sự Công Giáo), tr. 228-240.

[16][16] Bài tham luận tại Subiaco.

[17][17] John L. Allen Jr, Bài viết : “Pope Benedict XVI takes a busman's holiday” (WORLD FROM ROME) 

[18][18] Hồng y Ratzinger, Muối Cho Đời ; (HCM : Thời Sự Công Giáo), tr. 223-227.